Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 21
”Xin huynh đệ Hà Dương hãy đợi
Để ta vào thưa với Tôn Sư
Vội vàng đáp lễ Dương Từ
Hôm nay muốn biết thực hư thế nào?
Chùa Linh Diệu am cao mây núi
Tiếng đồn xa thui thủi tới đây
Traỉ qua cát bụi dạn dày
Gập ghềnh trắc trở chẳng tày tấc gang
Không thờ Phật khói nhang lay lắt
Cũng tọa thiền réo rắt suối ca
Đường lên cảnh vật bao la
Lánh xa trần thế sa bà khổ đau“.
Theo Lu Hà tôi thì tu tiên và tu phật đều lấy thiền làm
căn bản. Mục đích chính là thoát khỏi sự khổ đau. Tu tiên lấy thiên nhiên làm
trọng, mọi sự đều nhất thiết thuận theo thiên nhiên theo sự vần xoay của trời đất
vũ trụ không nặng nề về kinh pháp. Nhưng hai đạo này theo ý kiến của cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm thì:
-Tu tiên và tu phật con đường nào tốt nhất thoát ly khổ
đau?
Loài tiên khỏe mạnh, sống lâu, trẻ mãi không già lại có thần
thông tha hồ vui hưởng lạc thú mà chẳng sợ thân thể nặng nề, đau ốm. Tuy vậy,
tu tiên có phải là con đường rốt ráo để thoát ly khỏi mọi khổ đau của cuộc đời
hay không? Câu chuyện dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc nên chọn con đường
tu tiên hay tu phật.
Đàm Loan pháp sư, một trong những vị bồ tát khai sáng pháp
môn Tịnh Độ của Phật giáo, sinh trưởng ở Nhạn Môn, (huyện Đại, tỉnh Sơn Tây),
Thời trai trẻ, vì nhà của Sư ở gần núi Ngũ Đài, thường được nghe những chuyện
thần tích linh dị về chư Phật, Bồ-tát.
Năm 10 tuổi, nhân một chuyến rong chơi, phiêu lưu tới Ngũ
Đài sơn, thấy khói sương lãng đãng cùng những dấu vết kỳ bí, khác thường, ngài
liền phát tâm xuất gia.
Về sau, trong khi đọc kinh Đại Tập, thấy văn nghĩa nhiệm mầu
sâu xa, Đàm Loan pháp sư tình nguyện chú giải rộng ra cho mọi người đều có thể
thông hiểu. Nhưng, công việc mới được nửa chừng bỗng phát bịnh nặng phải thay
thầy đổi thuốc nhiều phen.
Một hôm, Sư chợt thấy cửa trời rộng mở, bệnh tự nhiên
thuyên giảm, liền phát khởi ý tưởng đi tìm phương pháp trường sanh bất tử. Ngài
than thở rằng:
“Mạng người rất mong manh, cơn vô thường khó định. Ta nghe
bậc thần tiên có phép tu trường sanh bất lão. Có lẽ trước hết nên cầu học phép ấy
cho thân thể mạnh khỏe sống lâu, rồì sau mới tu hành theo Phật, e hợp lý hơn
chăng ?”
Suy nghĩ như thế rồi, ngài qua Giang Nam tìm các nhà đạo
gia tiên thuật như đạo sỹ Đào Hoằng Cảnh ở núi Cú Dung mà khẩn cầu truyền thụ
những bí quyết về tiên thuật. Vị ấy trao cho một bộ Tiên Kinh gồm mười quyển.
Ngài sung sướng mang trở về.
Dè đâu, nhân duyên hi hữu, chắc hẳn do gieo trồng nhiều
căn lành từ lắm kiếp lâu xa, vừa đến Lạc Dương thì gặp ngay ngài Tam Tạng Pháp
sư Bồ Đề Lưu Chi, liền đem ưu tư của mình ra chất vấn:
”Trong đạo Phật có pháp trường sanh bất lão như Tiên Kinh
này chăng ?”.
Ngài Bồ Đề Lưu Chi cười rằng:
– Ở cái xứ xa xôi hẻo lánh này, vừa kém văn hóa vừa thiếu
phước báo tâm linh, thì làm gì có được pháp trường sanh bất tử ? Mười quyển
Tiên Kinh mà ông mang theo, nếu liều mình tu tập (tu tiên) cũng chỉ đem lại hiệu
năng kéo dài mạng sống dựa trên tấm thân máu mủ tanh hôi này, tạm thời chưa chết
chứ làm gì nói tới chuyện trường sanh ? Nhưng đến khi quả báo của loài Tiên chấm
dứt, nghiệp lực đời trước hiện ra, kết cuộc vẫn bị trôi lăn trong sáu nẻo luân
hồi. Như vậy, có chi gọi là quý báu đâu ?
Luận về trường sanh bất tử, nói thật, duy chỉ Phật pháp mới
đảm đương nổi”.
Nói xong, ngài Lưu Chi lấy trong đãy ra một cuốn kinh Quán
Vô Lượng Thọ Kinh (Thập Lục Quán Kinh – kinh chỉ dạy 16 phép quán tưởng Phật A
Di Đà và cõi Cực Lạc) trao cho Đàm Loan, và bảo:
– Tu học theo đây, thì không còn luân chuyển trong sáu đường,
thoát ly hẳn ba cõi. Sự vinh hư thành bại, đường họa phước xuống lên, cũng
không còn ràng buộc được. Nói về thọ lượng, thì số kiếp như cát sông Hằng chẳng
thể sánh ví bằng. Đây mới đích thật là phép trường sanh của đấng Đại Giác Kim
Tiên chúng ta vậy.
Ngài Đàm Loan mừng rỡ vô cùng, tiếp nhận và cảm tạ. Sau
khi đọc đi đọc lại lắm lần, cùng so sánh kỹ hai pho sách, Pháp sư liền đốt bỏ
Tiên kinh, chuyên tu theo Quán kinh.
Từ đó ngài thấu triệt được ý nghĩa sâu xa, uyên áo của
pháp môn Niệm Phật, đem Thập Lục Quán Kinh ra dạy bảo và phổ biến cho hàng đệ tử
xuất gia cũng như tại gia.
Lại soạn văn lễ Tịnh Độ nối tiếp kệ văn của tổ sư Long Thọ,
và sáng tác bộ Vãng Sanh Luận Chú (chú thích bộ luận Vãng Sanh) để lưu truyền
trong nhân gian.
Hoàng Đế nhà Ngụy là vua Hiếu Tịnh rất mến trọng, thỉnh
Ngài tới hoàng cung, ban tặng pháp hiệu là Thần Loan.
“Trước cửa động hỏi nhau Từ Mậu
Lỡ tu rồi cửa hậu chán chường
Bảo rằng Phật ở tây phương
Man di bộ lạc luân thường chẳng ưa
Nghe tam đại đời xưa đâu có
Quốc thái dân an độ chúng sinh
Vẫn chưa giáo phái thành hình
Sau Đường Tam Tạng rước kinh phật về“
Đường Tăng, Đường Tam Tạng có tên là Trần Huyền Trang đời
nhà Đường quả thật có sang Ấn Độ đi lấy kinh nhưng chỉ đi có một mình nhưng đến
thời nhà Minh thì lại là nhân vật trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân,
được phỏng theo nhân vật có thật là Trần Huyền Trang. Câu chuyện Tây Du Ký chủ
yếu kể về cuộc hành trình đi lấy kinh của ông cùng với 4 người đệ tử: Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã.
Cũng giống như đệ tử của ông là Tôn Ngộ Không, Đường Tăng
cũng có khá nhiều tên gọi:
Giang Lưu Nhi: Được đặt bởi Pháp Minh thiền sư, khi Đường
Tăng hồi bé bị mẹ thả sông lưu lạc.
Trần Huyền Trang: Được đặt bởi Pháp Minh thiền sư khi Đường
Tăng lên 18 tuổi, lấy họ của cha là Trần.
Đường Tam Tạng (Đường
Tăng): Được vua Đường Thái Tông đặt trước khi đi lấy kinh, lấy tên nước Đường
làm họ, đi lấy 3 tạng kinh nên gọi là Tam Tạng.
Chiên Đàn Công Đức
Phật: Được phong phật khi lấy được kinh, tu thành chính quả.
Đường Tam Tạng, họ Trần tên Huyền Trang, tên hồi bé là
Giang Lưu, kiếp trước là Kim Thiền Tử, đệ tử của Phật Tổ Như Lai, do ngủ gật
trong giờ giảng kinh và vô tình đá đổ một hạt gạo nên bị phạt đày xuống trần
gian tu 10 kiếp và phải trải qua 81 kiếp nạn mới được trở lại Linh Sơn.
Trong 9 kiếp đầu, Kim Thiền Tử có đi lấy kinh nhưng qua
sông Lưu Sa lại bị Quyển Liêm (Sa Tăng) ăn thịt, mỗi lần ăn thịt lại ném đầu
lâu xuống sông nhưng đầu lâu không chìm, thấy là vật lạ nên Quyển Liêm xâu đầu
lâu lại thành vòng cổ, tổng cộng 9 kiếp của Kim Thiền Tử đều bị Quyển Liêm ăn
thịt nên không thể đi lấy được kinh, chỉ góp phần làm cho chuỗi vòng đầu lâu có
đến chín cái sọ.
Tới thời vua Đường Thái Tông, có ông Trần Quang Nhụy thi đỗ
trạng nguyên, sau được bà Ân Ôn Kiều chọn và cưới bà Ân Ôn Kiều, trở thành con
rể Ân thừa tướng, rồi mang thai Huyền Trang. Sau này, Quang Nhuỵ được nhậm chức
đi xa, anh cùng vợ và mẹ lên đường nhận chức. Giữa đường, mẹ Quang Nhuỵ bị bệnh
nên tạm thời gửi lại quán trọ, sau khi nhận quan sẽ quay lại đón nhưng ai dè
trên đường sang sông, Quang Nhụy bị tên cướp là Lưu Hồng hạ sát, vứt xác xuống
sông, dành chức lẫn dành vợ. May sao Quang Nhụy trước kia có ơn với Long Vương
nên xác được bảo quản kỹ, không thối rữa. Bà Ôn Kiều sinh Trần Huyền Trang, lo
lắng con bị Lưu Hồng hại, bà cắn ngón chân con trai làm dấu, cho trôi sông cùng
với bức thư. Trần Huyền Trang trôi theo dòng nước đến chùa Kim Sơn, được sư ở
đây nuôi lớn, dạy dỗ và khi lên 18 thì được nói về quá khứ của mình.
Biết được quá khứ, Huyền Trang về xứ cũ tìm bà nội và chữa
bệnh cho bà, tìm mẹ và nhờ ông ngoại cứu mẹ. Cha sau này khi mọi chuyện xong
xuôi được hồi sinh, gia đình đoàn tụ nhưng Huyền Trang lại tiếp tục tu, bà Ôn
Kiều sau uống thuốc độc tự tử, bi kịch tiếp nối bi kịch...
Tính từ khi sinh đến thời điểm này, Tam Tạng đã trải qua 4
kiếp nạn trong 81 kiếp nạn.
Cuộc hành trình của Huyền Trang bắt đầu sau khi vua Đường
Thái Tông Lý Thế Dân từ âm phủ lên , đã mời Huyền Trang về giảng kinh thư. Bồ
Tát hóa thân đến thành Trường An thấy Huyền Trang, tặng cho Huyền Trang áo cà
sa và cây tích trượng, nói rằng cách Đông Thổ 108000 dặm là Linh Sơn có 3 tạng
kinh Đại Thừa Chân Kinh, có được sẽ cảm hoá được chúng sinh. Huyền Trang quyết
tâm ra đi để thỉnh kinh về.
Vua khuyến khích đi, đặt tên Huyền Trang là Tam Tạng, kết
nghĩa huynh đệ, tặng cho cái bát vàng, một con ngựa trắng và 2 sư đi cùng.
Tam Tạng bắt đầu cuộc hành trình.
Đáng tiếc thay, vừa ra khỏi thành thì 2 sư bị yêu quái giết,
Đường Tăng may mắn sống sót bởi Thái Bạch Kim Tinh. Tam Tạng có sự giúp đỡ của
thợ săn Lưu Bá Khâm trước khi gặp đồ đệ đầu tiên là Tôn Ngộ Không hay Tôn Hành
Giả. Và từ đây, ông tiếp tục trải qua hết 81 kiếp nạn cùng 4 người đệ tử của
mình và lấy được chân kinh, tu thành chính quả, được phong chức Chiên Đàn công
đức Phật hay Công Đức Phật Tổ hay Vô Lượng Công Đức Phật.
“Phật chứng quả bồ đề đạo hạnh
Cõi niết bàn bá tánh thấy đâu
Thiện nam tín nữ bạc đầu
Ái tình tận diệt chân cầu tử sinh?
Chớ nói vậy oai linh chánh pháp
Phật Thích Ca dung nạp muôn loài
Luân hồi nghiệp chướng bi ai
Ba ngàn thế giới khứ lai tận tường
Hán Minh Đế triều cương tỏ rõ
Lương Vũ kia thích thú ăn chay
Ngụy Trần Tề Tống tới nay
Cà sa phấp phới kính thày Sa Môn
Từ kinh đô xóm thôn hết thảy
Trên dưới đều nhờ cậy phù đồ
con vua Tinh Phạn tung hô
Xuất thân thái tử nam mô di đà
Thân khẩu ý xót xa nghiệp chướng
Ý nghiệp đầy nợ vướng trần ai
Lương tâm mãi chẳng nguôi ngoai
Cốt sao giữ được thiện tai vô thường
Dương Từ hỏi thiên đường của Chúa
Theo đạo trời dàn dụa máu tươi
Chôn cây thập ác trói người
Xích xiềng đinh đóng lệ rơi đầm đìa
Hà Mậu nói ghi bia tạc tượng
Ngàn năm sau theo hướng chân đi
Vác cây thập gía thầm thì
Hành hương nước Chúa quản
gì chông gai
Chúa chịu tội nhân loài cám rỗ
Vì tham lam báng bổ thần linh
Trời cao có đức hiếu sinh
Chắp tay cầu nguyện thánh kinh tin lành
Câu bác ái nhân danh thiên Chúa
Tình yêu thương là của chúng ta
Dương cầm thánh thót bay xa
A men! chúc tụng mọi nhà bình an“
Trong truyện thơ của tôi hai nhân vật chính là Dương Từ và
Hà Mậu. Dương Từ theo đạo Phật thờ Thích Ca tổ sư, còn Hà Mậu theo đạo Chúa Jeus.
Nhưng lại cùng nhau lên núi tiên để hỏi về chuyện đời và tỏ ra ngưỡng mộ thích
thú cảnh tiên có động thiên thai.
Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 22
“Chúa trải qua muôn vàn khổ hạnh
Con một mang trọng trách gian nan
Ba ngôi Thiên Chúa thánh thần
Gie-xu nhập thể thế nhân làm người
Ta theo đạo Chúa trời thế đó
Đã năm đời sáng tỏ Gia- tô
Khác chi đạo Phật phù đồ
Cầu kinh sám hối nam mô di đà
Cả hai đạo đều là thánh thiện
Dạy nhân lành dâng hiến cho đời
Còn hơn Nho giáo lắm lời
Tôn thờ vua chúa lòng người ngả nghiêng
Lũ vô thần xích xiềng thống trị
Tham lợi quyền gian dối lọc lừa
Lạ gì mướp đắng mạt cưa
Hổ mang sư sãi say xưa đạo tà
Linh mục rỏm sa đà vật chất
Chẳng thiếu gì bày đặt thánh kinh
Con chiên, cư sĩ bất bình
Oan gia trái chủ rập rình khói nhang
Dương Từ nói Ngọc Hoàng thượng đế
Là Chúa trời cũng thế mà thôi
Thế gian này lắm lưỡi môi
Giê-xu chịu tội than ôi kiếp người!
Con thiên Chúa ba ngôi vô lý
Còn nhiệm màu là ý gì đây
Tình người bác ái vui vầy
Giòng tu thánh chiến ngập đầy máu xương
Hà Mậu vội tang thương tôn giáo
Cuộc chiến tranh tàn bạo cường quyền
Đấu tranh giai cấp đảo điên
Giết người hàng loạt tuyên truyền mị dân
Trò chuyên chính bất nhân đủ loại
Đạo của ta bác ái yêu thương
Giê-xu đâu phải người thường
Phục sinh trở lại thánh vương cõi đời
Dương Từ hỏi bao người tin Chúa
Phật Thích Ca là của chúng sinh
Luân hồi thụ tạo muôn hình
Ba nghìn thế giới hành tinh trập trùng
Hai chúng ta đường cùng thui thủi
Ở chốn này đỉnh núi
thiên thai
Nghe rằng ở huyện Tôn Nhai
Có người đạo trưởng oan sai ngồi tù
Bình nước thánh Giê xu chẳng rửa
Tội đại hình biết dựa vào đâu
Hòa Lan ở tận tây Âu
Phương đông Khổng Lão cơ cầu Phật môn“
Đạo Ki tô từ Tây Âu truyền sang Việt Nam và Tàu phải kể đến
trước tiên là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Hà Lan gọi theo giọng Bắc chịu ảnh
hưởng nặng bởi chữ Hán còn trong miền Nam thời cụ Nguyễn Đình Chiểu gọi là Hòa
Lan, tên gốc bản xứ là Niederland hay Holland. Thật đáng tiếc và cực kỳ ngu xuẩn
thời cụ Nguyễn Đình Chiểu các vua nhà Nguyễn lại lật lọng với linh mục Bá Đa Lộc
chống đối đạo Gia tô ( Ki tô) kịch liệt, chặt đầu các giáo sĩ hay con chiên như
phạt chuối. Buồn thay chính cụ Nguyễn Đình Chiểu lại nặng nề bởi cốt cách Khổng
giáo và cụ chẳng ưa gì đạo này. Nguyên tác thơ lục bát của cụ tỏ ra khinh miệt
bài xích cả Chuá Jeus Chritstus. Nhưng với Lu Hà tôi thì ngược lại.
13.3.2020
Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét