Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 46
“Người mẹ già bồi hồi xúc động
Dặn hai con lương đống hiền tài
Tang bồng hồ thỉ mấy ai
Trung quân báo quốc sức trai phỉ nguyền
Mẹ cam chịu ưu phiền túng thiếu
Mặc hai con lo liệu mọi bề
Phong trần dặm nẻo sơn khê
Công thành danh toại tràn trề tương lai“
Lương đống nghĩa là rường cột và nóc nhà, nghĩa bóng là chỗ dựa của nước nhà. Lương đống nguy nga chỉ nhà cửa cao đẹp.
Tang bồng hồ thỉ hay tang hồ bồng thỉ nghĩa là “Tang” là dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ” là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Ngày xưa bên Tàu, hễ sinh con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất. Ý nghĩa của việc làm này là sau này trưởng thành, hy vọng người con trai sẽ mang chí lớn đầu đội trời chân đạp đất gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
“Lễ tiểu khoa trai tài gái sắc
Cờ biển ban chim hạc bay cao
Thám hoa bảng nhãn nhất trào
Chờ ngày võng lọng xôn xao xóm làng“
Lễ tiểu khoa nghĩa là kết hôn cưới vợ sau khi người con trai đã hoàn thành lễ đại khoa tức là thi đỗ thành đạt. Bảng nhãn là một danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục của China và Việt Nam thời phong kiến.
Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, nhị danh. Người thi đỗ bảng nhãn đứng thứ hai trong tam khôi dưới trạng nguyên, trên thám hoa.
“Nơi hậu viện Tuyết Băng hai ả
Mơ tân lang thư thả gót hài
Dương Trân Dương Bửu khoan thai
Cúi đầu ba lễ cân đai sảnh đường
Không theo Phật chẳng tường Nho giáo
Đạo Hòa Lan chưa thạo đường đi
Nghẹn ngào bồ liễu nữ nhi
Thu Băng Xuân Tuyết thầm thì Chúa ơi!
Họ hàng ai tới nơi thăm hỏi
Phủ Tần Công vời vợi cao sang
Cha tu mẹ dưới suối vàng
Họ Tần nhờ cậy khang trang cửa lầu
Nay chẳng thiếu kẻ hầu người hạ
Hai tiểu thư vàng đá trăm năm
Hương thơm ngây ngất trăng rằm
Xe dây kết tóc con tằm nhả tơ
Soạn sáu bản nhạc thơ tao nhã
Khúc tương tư bả lả xốn xang
Thướt tha yểu điệu dịu dàng
Dương Từ Hà Mậu mơ màng canh thâu
Nghe réo rắt phụng cầu Tư Mã
Trác Văn Quân nghiêng ngả năm nào
Thuyền quyên thục nữ má đào
Trai hùng hội ngộ thi hào đờn ca
Tiếng cầm sắt bay xa tha thiết
Hai chị em da diết tân lang
Kim bôi hợp cẩn thiếp chàng
Hai đôi loan phượng xích thằng nỉ non
Nhưng than ôi duyên còn xa lắc
Mộng kê vàng dằng dặc Nam Kha
Bao giờ trọn vẹn hai nhà
Dương Từ Hà Mậu cung nga mận đào
Cha mẹ nuôi dựa vào Nho đạo
Kén rể hiền Khổng giáo thư sinh
Chị em ráng sức hết mình
Công dung ngôn hạnh tuyệt tình Gia tô
Hai mươi bốn thảo phô đầu ngõ
Ánh trăng vàng ngọc thỏ ai hay
Trời sinh đất dưỡng ơn dày
Mẹ cha khó nhọc tháng ngày lầm than”
Đoạn thơ trên tôi mô tả giấc mơ của hai chị em con gái vợ chồng Hà Mậu Liễu Nương, hai nàng Thu Băng và Xuân Tuyết đã trở thành hai tiểu thư nhà họ Tần về hai chàng Dương Trân và Dương Bửu sẽ đi thi đình tuyển chọn tiến sĩ và đỗ cao thứ hai và thứ ba sau trạng nguyên là bảng nhãn và thám hoa.
Truyện Tình Hai Họ Dương Hà
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 47
“Công phụ mẫu non ngàn biển rộng
Tháng năm hoài nòi giống sắt son
Lẽ nào sinh sự mất còn
Cha con khác đạo héo hon cõi lòng
Đạo vua tôi theo dòng thế kỷ
Kẻ tiểu nhân ghen tỵ hẹp hòi
Tề gia tu đức sáng soi
Bình yên thiên hạ rạch ròi giang san
Khi xã tắc gian nan trợ giúp
Gặp địch quân đánh úp sau lưng
Sĩ phu chớ có lừng khừng
Gian thần loại bỏ thanh trừng kiêu binh
Đạo vợ chồng gia đình êm ấm
Giàu nghèo đều giữ tấm tình thương
Trước sau phép tắc cương thường
Anh em họ mạc quê hương trọn lòng
Người quân tử chẳng mong quyền quý
Phải uốn lưng quỵ lụy chui luồn
Bầy đàn sâu mọt con buôn
Tham quan ác bá bán trôn nuôi mồm
Lũ ăn theo chồm hôm cẩu tặc
Chút cơm thừa tàn ác hại người
Thị phi reo rắc muôn nơi
Đặt điều vu khống đánh hơi cắn càn
Giọng thơ ngâm cung đàn thảm thiết
Thật tài tình Xuân Tuyết Thu Băng
Lẽ đời đạo hạnh ai bằng
Nàng Ban ả Tạ dễ dàng chịu thua“
Nàng Ban tức là Ban Chiêu, tự Huệ Cơ sinh trưởng trong gia đình Nho học, cha anh đều là bậc công thần học thức uyên bác. Ban Chiêu rất thông minh, 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi cặp kê, Ban Chiêu sánh duyên cùng Tào Thế Thức, cũng là một nhà nho lỗi lạc.
Ăn ở với nhau được 10 năm, Thức chết, nàng thủ tiết thờ chồng. Nhà vua nghe danh nàng Ban học rộng tài cao nên cho vời vào cung dạy các hoàng tử, cung phi. Ai ai cũng tôn trọng là bực thầy.
Lúc bấy giờ, Ban Bưu đương làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư. Nhưng làm chưa xong, Ban Bưu chết. Anh của nàng là Ban Cố được lịnh kế nghiệp cha, nhưng công việc chưa xong thì bị bệnh nặng rồi mất.
Thấy cha và anh bỏ dở công việc, Ban Chiêu tâu xin nhà vua cho nàng được tiếp tục biên soạn bộ Hán Thư. Vua Hòa Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư mà cha và anh chẳng may bỏ dở. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn trứ tác tập "Nữ giới" gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn. Tạ Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền chỉ tuyết, hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời.
Tạ Đạo Uẩn bảo:
- Thế mà chưa bằng "Gió thổi tung tơ liễu".
Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:
- Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.
Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.
Làm vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.
Em chồng của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện luận với khách.
Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.
Nàng Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn thuật nàng Kiều sang chỗ ở của Kim Trọng và đề thơ trên bức tranh, Kim Trọng khen nàng:
“Khen tài nhả ngọc phun châu.
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này”
“Giỏi nữ công thêu thùa khéo léo
Hai tiểu thư trêu ghẹo dưới trăng
Chủ hôn đã có chị Hằng
Dương Trân Dương Bửu thung thăng đợi chờ
Lòng xao động ngẩn ngơ phu tử
Trộm đứng nhìn tư lự vấn vương
Hai chàng ấp bóng góc tường
Càng say vẻ ngọc càng vương vấn tình
Khúc đoạn trường sinh linh đồ thán
Cõi nhân gian hoạn nạn dồn nhau
Thiên tai bệnh dịch khổ đau
Gây ra mầm họa vàng thau bụi mờ
Biết bao kẻ nhuốc nhơ tội lỗi
Mưu lợi riêng lạc lối bá quyền
Tập đoàn ăn chặn bạc tiền
Ăn chơi trác táng bon chen điếm đàng
Nghe tiếng đờn trăng vàng thểu não
Đom đóm bay lảo đảo bước chân
Dương Trân Dương Bửu lại gần
Hoa xinh bẽn lẽn giai nhân thẹn thùng
Hàng quốc sắc trai hùng gặp mặt
Bậc văn nhân xếp đặt ý trời
Kẻ chào người đón tươi cười
Lòng trong như đã ngoài lời còn e
Quan tổng trấn hả hê mới gọi
Đoàn huyện quan tươi rói nụ cười
Phu nhân khen thưởng ngỏ lời
Bạc vàng gấm vóc về nơi dưỡng già
Nhạc phụ mẫu trau tria hai rể
Cấp ngựa xe đủ lễ về làng
Hai thày cử nhỏ xênh xang
Về thăm mẹ cậu họ hàng tổ tông”
Đoạn thơ này miêu tả hai cặp song sinh gặp nhau dưới ánh trăng ở hậu viên phủ Tần Công, họ rất ăn ý hợp nhau cũng tình tứ nên thơ như cảnh chiều tà Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên cạnh mả Đạm Tiên cũng được tôi miêu tả bằng thơ song thất lục bát trong tập Tài Mệnh Tương Đố
“Hồn thổn thức bi ai ảo não
Ba chị em lảo đảo toàn thân
Bỗng đâu sáo nhạc xa gần
Ra về chẳng nỡ tần ngần ngẩn ngơ
Linh cảm khéo tình cờ như báo
Dáng thư sinh đạo mạo thung thăng
Tay cương buông lỏng dặm băng
Túi thơ bầu rượu gió trăng khác người
Đàn cá trắng chơi vơi chờ đợi
Sóng lăn tăn chới với bần thần
Tiểu đồng hai đứa theo chân
Aó xanh thanh thoát tao nhân đề huề
Màu cỏ nhuộm đê mê ngây ngất
Non da trời phảng phất quỳnh dao
Vương Quan bước tới hỏi chào
Khách đà xuống ngựa dạt dào lòng hoa
Mặt mừng rỡ thái hòa chúc tụng
Hai chị em lúng túng làm sao
Cúi đầu nấp dưới cành đào
Vân Kiều thỏ thẻ dạt dào tuyết sương
Chàng Kim Trọng văn chương vốn liếng
Dòng trâm anh có tiếng gần xa
Xôn xao vẫn nước non nhà
Với Vương Quan, mới khéo là bạn thân
Vẫn hâm mộ hương lân đồng Tước
Nhà Họ Vương có được xuân Kiều
Giang Nam thơ mộng mĩ miều
Phong lan ngào ngạt yêu chiều cả hai
Lòng xao xuyến anh tài nữ sắc
Nổi cờ lên ngơ ngác nhìn nhau
Thẹn thùng kẻ trước người sau
Lần khân chẳng tiện trời mau tối dần…“
3.4.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét