Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 187

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 42

 

„Hai trẻ nhỏ hanh thông sáng láng

Thày bám theo bước thẳng vào nhà

Ngỏ lòng cậu mẹ thiết tha

Xin nuôi Trân Bửu nhân hà cầu mong

 

Đường quan lộ thong dong ngày tháng

Đỡ gia đình tỏ rạng phiếu mai

Quốc gia lương đống hiền tài

Kinh bang tế thế trần ai mấy người

 

Đỗ nương Đỗ Khoái rơi dòng lệ

Hai chị em san sẻ niềm vui

Họ hàng lối xóm tới lui

Chúc mừng hai cháu mài dùi kinh thư

 

Nơi lầu hạc thiên tư chẳng phụ

Thày thương yêu truyền thụ kiến văn

Đường thi sĩ tử luận bàn

Anh hoa phát tiết chứa chan ân tình

 

Tuổi thiếu niên thông minh tột bậc

Đã ba năm như giấc chiêm bao

Chị em họ Đỗ nghẹn ngào

Dương Từ hai giọt máu đào chảy xuôi

 

Ơn Phật tổ thuyền trôi bát nhã

Cập bến từ thong thả Như lai

Đài sen ngào ngạt ban mai

Trong veo nước suối một hai chốn nào

 

Thơ Lục Nga cù lao chín chữ

Miếu Hà thần do dự mãi sao

Bây giờ cha ở nơi nao

Hỏi dò cậu mẹ thế nào cũng xong

 

Non Tùng Lãnh cầu mong đắc đạo

Aó cà sa tam bảo là nơi

Lại nghe Lão Tử thảnh thơi

Tu tiên dang dở chơi vơi nửa đường

 

Cũng chẳng ngại dặm trường cách trở

Hai chúng con lên đó tìm cha

Hiểm nguy quan ải sơn hà

Chắp tay quỳ lạy thiết tha toại nguyền

 

Đỗ nương từng thuyền quyên thục nữ

Chẳng nề hà tư lự bố kinh

Gìa nua chi trách phận mình

Hai con quyết chí thuận tình ra đi

 

Thật đáng mặt tu mi nam tử

Thấy cảnh chùa thi tứ thẫn thờ

Sãi Mầm thày Lộc ngẩn ngơ

Thiện Trai chẳng rõ bây giờ ở đâu?

 

Đại sư đã cạo râu xuống tóc

Tám năm rồi khó nhọc biết bao

Tụng kinh gõ mõ thế nào

Làm sao biết được núi cao rừng già“

 

Đoạn thơ này rất dễ hiểu, tôi thấy không có câu chữ nào cần phải bình giảng giải thich ý nghĩa làm gì. Mỗi người trong chúng ta, nếu đã biết đọc chữ Việt Nam thiết tưởng đọc lên là hiểu liền, hãy dành cho mình những phút giây thư thái, thư giãn thả lỏng toàn thân, lim dim đôi mắt lại mà hưởng thụ hồn thơ miễn phí. Hãy để cho từng chữ, từng câu, từng vần điệu, nhạc điệu của thơ, giọng ngâm thơ của Thu Hà vuốt ve âu yếm mơn trớn tự cảm thấy như được xoa bóp các đầu dây thần kinh trên cơ thể mình kể cả những góc khuất kín như bưng, sâu thẳm nhất của thể xác và linh hồn.

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 43

 

“Khách thập phương sẻ chia chẳng có

Không khói nhang thày tớ bần hàn

Đại sư hòa thượng thế gian

Ngao du đây đó giang san chốn nào?

 

Coi bàn Phật ghẹn ngào chẳng nói

Nhện giăng đầy vời vợi ngóng trông

Oản xôi hoa qủa cũng không

Tượng ông Quan Vũ chất chồng bụi dơ

 

Mới cảm khái làm thơ để tặng

Cả một đời cay đắng xót xa

Vung đao năm ải đi qua

Kinh Châu thất thủ nhạt nhòa đầu rơi

 

Sư Phổ Tịnh thương người nghĩa khí

Mới cầu siêu thần trí tiêu tan

Cơ đồ Hán thất lụi tàn

Trương phi Lưu Bị khóc than thảm sầu“

 

Trong bộ Tam Quốc diễn nghĩa của tác La Quán Trung từng có đoạn: Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi ba người tâm đầu ý hợp, mới quen biết đã kết nghĩa huynh đệ tại vườn đào Trương gia trang

 

Hoa Dương quốc chí  mục "Lưu tiên chủ truyện" có viết: "Chúa Lưu Bị cùng Quan Vũ, Trương Phi ngủ chung giường, ăn cùng mâm, tình như anh em.

 

Phần Trương Phi truyện trong đó cũng viết: "Vũ hơn Phi mấy tuổi, nên Phi thường coi như anh."

 

Khi Quan Vũ lưu lại quân doanh Tào Tháo để ý thấy ông không có ý ở lại lâu dài với mình, bèn sai Trương Liêu đến thăm dò ông. Quan Vũ thẳng thắn nói với Trương Liêu:

-"Tào Công đối với tôi rất tốt, trong lòng tôi biết rõ. Nhưng tôi chịu ơn trời cao đất dày của Lưu tướng quân, từng thề là cùng sống cùng chết, không thể phản bội được. Tôi không thể lưu lại nơi này, chỉ có điều phải đợi lập được công, báo đáp Tào Công thì tôi mới đi."

Hơn nữa, "Tam Quốc diễn nghĩa" vẫn bị đánh giá là một cuốn tiểu thuyết "bảy phần thực, ba phần hư", tác giả La Quán Trung cũng không phải người thời Tam Quốc.

Rất có thể cuộc "kết nghĩa đào viên" nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc của bộ ba Lưu – Quan - Trương chỉ là sự tưởng tượng của La Quán Trung lấy cảm hứng từ mối quan hệ "tình như huynh đệ như thủ túc" được Trần Thọ nhắc tới trong Tam Quốc Chí mà thôi.

 

 

Quan Vũ được Lưu Bị giao trọng trách trấn thủ Kinh Châu. Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung  thuộc địa bàn của Lưu Bị.

 

Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường phục kích. Chu Nhiên để sổng Quan Vũ, nhưng bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt sống được Vũ cùng Quan Bình và Triệu Lũy. Cả Quan Vũ và Quan Bình cùng bị hành quyết tại chỗ.

 

  Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung lại thêu dệt thêm chuyện mê tín dị đoan rằng sau khi nhân vật Quan Vũ chết, hồn phách không tan, lượn lờ đòi trả lại đầu; sau nhờ gặp một nhà sư mới giác ngộ, biến mất, nhưng vẫn thường hiển linh để giúp người này người nọ.

    Thanh long đao không có thật của nhân vật Quan Vũ bị Phan Chương lấy mất, còn ngựa Xích Thố ngựa của Lã Bố, chưa bao giờ thuộc về Quan Vũ, được thưởng cho Mã Trung. Sau này hồn ma của Quan Vũ hiện lên để giúp con trai Quan Hưng giết nhân vật Phan Chương đoạt lại đao. Quan Hưng thật ra là quan văn, bị chết yểu, qua đời trước Phan Chương, còn ngựa cũng bỏ ăn để chết theo chủ.

 

Tôn Quyền sai người mang đầu Quan Vũ đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu ông đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Ngô lịch viết: Quyền đem đầu của Vũ đến chỗ Tào công.Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả tình tiết rằng Tào Tháo cho người dùng gỗ quý tạc thành thân người rồi chắp đầu lâu của Vũ vào an táng.

 

Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ. Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền.

 

 Nhà văn La Quán Trung thêu dệt nên chuyện rằng: "Ngày Tôn Quyền mở tiệc khao Lã Mông, hồn Quan Vũ đã quay về giết chết nhân vật Lã Mông. Vì hoảng sợ và để ly gián Ngụy và Thục nên Quyền đem đầu ông đến nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy vẫn hồng hào như còn sống. Cái đầu bổng trừng mắt ra nhìn, râu tóc dựng đứng lên; vì vậy nhân vật Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu và không lâu sau cũng chết. Câu chuyện này dựa trên một phần thực tế về cái chết của Lã Mông và Tào Tháo: không lâu sau khi đánh chiếm được Kinh châu, Lã Mông trở về cũng ốm nặng rồi qua đời, còn Tào Tháo bị bệnh đau đầu lâu năm rồi chết.

 

 

Quan Vũ bản tính kiêu căng ngạo mạn không những cùng con trai mất mạng, để mất Kinh Châu, mà còn khiến phe Thục Hán tổn thất lực lượng nặng nề, chiến lược của Gia Cát Lượng vạch ra ở Long Trung không còn khả thi. Sau này, Trương Phi vì nóng vội đi trả thù, đánh đập tướng sĩ, bị ám sát. Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã mang quân đi đánh Tôn Quyền , kết quả bị Lục Tốn đánh thua tan nát, rồi bị bệnh mất. Rất nhiều quan tướng của Thục Hán cũng chết trận ở Ngô, như Mã Lương, Trương Nam, Phùng Tập, cha của Phó Thiêm là Phó Dung...

 

“Lấy cục than tám câu bảy chữ

Với năm vần tư lự khấu đầu

Về nhà lã chã giọt châu

Nguồn cơn kể rõ bóng câu muộn màng

 

Càng rầu rĩ trăng vàng ngọc thỏ

Cậu dỗ dành bày tỏ Đỗ nương

Tuổi tròn mười sáu khác thường

Nghe đâu trên huyện Nam Khương tựu trường

 

Các sĩ tử bốn phương tấp nập

Về dự thi cao thấp văn chương

Khuyên hai con trẻ lên đường

Sửa bầu quẩy níp hội hương thi đình

 

Đi nửa đường thất kinh sĩ tử

Giặc Tây Châu chiếm giữ đất đai

Lệnh truyền các trấn quan sai

Khoa sau lại mở nhân tài quốc phong

 

Cứ ba năm chờ mong mòn mỏi

Khắp muôn nơi bờ cõi ngậm ngùi

Thương thay con đỏ dập vùi

Tấn Vương trăn trở sụt sùi lệ rơi

 

Thôi đành vậy dưới trời hổ đứng

Chốn sơn lâm chịu đựng mãi sao

Anh em Trân Bửu nghẹn ngào

Cha thời sống chết lẽ nào chẳng hay

 

Hội rồng mây lắt lay ngày tháng

Chí nam nhi chẳng đặng ngồi yên

Thấy tòa miếu cổ kề bên

Lá rơi xào xạc trên nền đá hoa

 

Một hồ sen chan hòa ong bướm

Ở giữa sân thấm đượm hơi sương

Ung dung sảng khoái thi đường

Phấn tô nét chữ vách tường đá vôi

 

Đóa bạch liên bồi hồi tâm dạ

Bến sông Tương vàng đá phôi phai

Than ôi kinh sử văn tài

Mùa thu vàng úa trần ai vướng sầu”

 

Giặc Tây Châu ám chỉ quân đội viễn chinh Pháp chiếm thành Gia Định tức Sài Gòn ngày nay và Nam Kỳ lục tỉnh chứ thời nhà Tấn bên Tàu không hề có giặc Tây Châu, có thể là Tây Vực mà cụ đồ Chiểu gọi là giặc Tây Châu?  Truyện thơ cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu viết bằng thể lục bát, thật lòng mà nói thơ cụ vần điệu còn gò ép nhiều vả lại mục đích của cụ chỉ nhắm vào đả phá đạo Gia Tô và cả đạo Phật luôn nên ở trong miền Nam không được phổ biến nhiều chỉ có hội văn hóa quê hương cụ là họ còn trân trọng sưu tầm đăng tải trên mạng Internet, vô tình lại lọt vào cặp mắt của tôi mà sáng tạo ra tập truyện thơ song thất lục bát này. Tôi thì trái ngược với cụ đồ Chiểu tôi hoàn toàn đứng ở vị trí khách quan làm trọng tài cho tất cả các đạo để quân bình tâm linh niềm tin tự do tôn giáo.

 

30.3.2020 Lu Hà

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét