Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 186

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 41

 

“Rủ con nít nhiều thằng kết bạn

Suốt cả ngày chẳng chán vui chơi

Châu Khê cảnh đẹp tuyệt vời

Miếu thờ giáo Thọ là nơi linh thần

 

Thật may mắn thánh nhân ngồi đó

Bậc tôn sư sáng tỏ rạng ngời

Văn nhân tuấn kiệt hai ngươi

Anh hoa phát tiết đất trời quang vinh

 

Vội quỳ xuống tiểu sinh trăm lạy

Xin hiện thân chỉ dạy đôi lời

Bất ngờ tượng đá mỉm cười

Bệ thềm có cuốn sửa đời chăn dân

 

Từ kim cổ quân thần phụ tử

Lấy hiếu trung thi tứ văn chương

Hai con chớ có xem thường

Anh em cùng đọc triều cương thuận hoà

 

Sách giáo hoá làm quà gặp mặt

Phải thành tâm bền chặt bốn phương

Tề gia trị quốc kiêm nhường

Lấy dân làm gốc kỷ cương rạch ròi

 

Dùng nhân nghĩa trọng coi chữ tín

Trong gia đình bịn rịn phu thê

Không theo tà giáo u mê

Vô thần bá đạo chó dê lạc loài

 

Minh đức thi trần ai văng vẳng

Vọng bên tai sang sảng ngâm nga

Ngược xuôi trong cõi sa bà

Thanh gươm cật ngựa sơn hà quản chi“

 

Hai anh em Dương Trân Dương Bửu vui chơi nô đùa cùng với bọn trẻ con cùng trang lứa trong làng người cậu, nhưng vô tình cả hai laị vào miếu thờ ông giáo Thọ là một nhà nho uyên bác. Ông giáo rất hiển linh ban cho hai cậu học trò nhỏ cuốn sách quý dạy cách viết chữ sơ học cơ bản về đạo nho. Thật ra thời xuân thu bên cạnh phái Nho gia còn có phái Mạc gia cũng rất bác học uyên thâm, đến đời nhà Tấn chủ trương tôn thờ Nho giáo. Vậy Nho giáo cụ thể cơ bản là gì?

 Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý,...

 

Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử  phát triển tư tưởng của Chu Công.

 

Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã  hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử.

 

“Sống không vui chết thì chẳng sợ

Trăm họ giàu nghèo khó thánh ân

Muôn loài tạo hóa có phần

Công minh chính trực thần dân cậy nhờ

 

Bất khả nhục tôn thờ kẻ sĩ

Lũ tiểu nhân thần trí lu mờ

Tấm lòng chớ để nhuốc nhơ

Gương trong vẩn đục hững hờ non sông

 

Được sách quý một công đôi việc

Hai anh em bắt chiếc viết ra

Thong dong dưới ánh trăng ngà

Lấy que làm bút thiết tha học hành

 

Tròn tám tuổi lớn nhanh như thổi

Dáng khôi ngô nổi trội khác đời

Đồn thày Trình Kiệt là nơi

Thú vui dạy trẻ nên người trong thôn

 

Buổi cuối thu bồn chồn trong dạ

Cùng học trò suối đá ngao du

Châu Khê gió thổi vi vu

Thấy hai ông lão che dù sườn non

 

Miền cẩm thạch chon von thánh thót

Suối reo ca tiếng hót chim muông

Thấy bầy hươu chạy như tuồng

Ra câu đối khó Thạch Công luận bàn

 

Vừa lúc đó Dương Trân Dương Bửu

Vạn bối xin cầu cứu thánh minh

Ngôn từ miệng lưỡi tiểu sinh

Thày Trình cảm phục thất kinh thần đồng“

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 42

 

„Hai trẻ nhỏ hanh thông sáng láng

Thày bám theo bước thẳng vào nhà

Ngỏ lòng cậu mẹ thiết tha

Xin nuôi Trân Bửu nhân hà cầu mong

 

Đường quan lộ thong dong ngày tháng

Đỡ gia đình tỏ rạng phiếu mai

Quốc gia lương đống hiền tài

Kinh bang tế thế trần ai mấy người

 

Đỗ nương Đỗ Khoái rơi dòng lệ

Hai chị em san sẻ niềm vui

Họ hàng lối xóm tới lui

Chúc mừng hai cháu mài dùi kinh thư

 

Nơi lầu hạc thiên tư chẳng phụ

Thày thương yêu truyền thụ kiến văn

Đường thi sĩ tử luận bàn

Anh hoa phát tiết chứa chan ân tình

 

Tuổi thiếu niên thông minh tột bậc

Đã ba năm như giấc chiêm bao

Chị em họ Đỗ nghẹn ngào

Dương Từ hai giọt máu đào chảy xuôi

 

Ơn Phật tổ thuyền trôi bát nhã

Cập bến từ thong thả Như lai

Đài sen ngào ngạt ban mai

Trong veo nước suối một hai chốn nào

 

Thơ Lục Nga cù lao chín chữ

Miếu Hà thần do dự mãi sao

Bây giờ cha ở nơi nao

Hỏi dò cậu mẹ thế nào cũng xong“

 

Thiên lục nga thuộc phần tiểu nhã trong kinh thư gồm 6 chương nói về công ơn cha mẹ và phận làm con. Trong Hán văn có câu: “ lục lục nga, phỉ nga y hao, ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao“.Nghĩa là dài lớn là cỏ nga, còn được gọi là cỏ hao, thương thay cha mẹ, nuôi ta khó nhọc biết bao.

Chín chữ cù lao gồm: sinh (đẻ), cúc (nuôi), phủ (vỗ về), súc (nuôi dưỡng), trưởng (chăm sóc cho lớn), dục (ấp ủ chiều chuộng nâng niu), cố (ngoái lại), phục (trở lại), phúc (ẵm vào lòng). Trong sách ghi chép có 24 thảo gọi là nhị thập tứ hiếu:

Ngu Thuấn hiếu cảm động trời, Lưu Hằng (Hán văn Đế) nếm thuốc, Tăng Sâm mẹ cắn ngón tay tim con đau xót, Mẫn Tốn nghe lời mẹ với quần áo giarn dị, Trọng Do vác gạo nuôi cha mẹ, Đổng Vĩnh bán thân chôn cha, Đàm Tử cho cho mẹ uống sữa hươu, Giang Cách làm thuê nuôi mẹ, Lục Tích giấu quýt cho mẹ, Đường phu nhân cho mẹ chồng bú sữa, Ngô Mãnh cho muỗi hút máu…

 

Non Tùng Lãnh cầu mong đắc đạo

Aó cà sa tam bảo là nơi

Lại nghe Lão Tử thảnh thơi

Tu tiên dang dở chơi vơi nửa đường

 

Cũng chẳng ngại dặm trường cách trở

Hai chúng con lên đó tìm cha

Hiểm nguy quan ải sơn hà

Chắp tay quỳ lạy thiết tha toại nguyền

 

Đỗ nương từng thuyền quyên thục nữ

Chẳng nề hà tư lự bố kinh

Gìa nua chi trách phận mình

Hai con quyết chí thuận tình ra đi

 

Thật đáng mặt tu mi nam tử

Thấy cảnh chùa thi tứ thẫn thờ

Sãi Mầm thày Lộc ngẩn ngơ

Thiện Trai chẳng rõ bây giờ ở đâu?

 

Đại sư đã cạo râu xuống tóc

Tám năm rồi khó nhọc biết bao

Tụng kinh gõ mõ thế nào

Làm sao biết được núi cao rừng già“

 

Dương Trân Dương Bửu tuy còn nhỏ tuổi sau khi được thày giáo truyền thụ giáo dục kiến thực sơ khai về đạo thánh hiền, phận làm con mới hỏi mẹ và cậu về cha của mình. Hai cậu thiếu niên đã tới ngôi chùa mà người cha đã xuống tóc đi tu, nhưng tiếc thay cha đã bỏ đi từ lâu rồi, bặt vô âm tín.

 

27.3.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét