Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 188

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 44

 

„Hai huynh đệ dòng châu lã chã

Giọt sương thu trên lá vàng phai

Thương thay tuổi hạc vóc mai

Mẹ già đơn bạc canh dài khóc cha

 

Giờ chẳng biết ải xa vực thẳm

Chốn thiên thai muôn dặm núi cao

Võ Đang tuấn kiệt anh hào

Nga Mi thục nữ má đào thướt tha

 

Tiểu Long Nữ trăng ngà mấy độ

Dương Hóa hồn dang dở đó đây

Kiếm hoa tình nghĩa vơi đầy

Thần điêu đại hiệp cỏ cây ngậm ngùi“

 

Võ Đang phái võ còn có tên là Võ Đang quyền hay Võ Đang Công phu là môn phái võ thuật xuất phát từ núi Võ Đang thuộc Tiêu Anh phủ. Sáng tổ là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong sống vào cuối đời nhà Nguyên và đầu đời nhà Minh. Mặc dù tục ngữ có câu: "Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm , song cũng lại có câu: "Bắc tôn Thiếu Lâm, Nam sùng Võ Đang".

 

Nga Mi là tên gọi một môn phái võ thuật ra đời tại núi Nga Mi và được truyền bá rộng rãi ở Tứ Xuyên. Nga Mi phái là môn phái do nữ giới sáng lập.

 

Tiểu Long Nữ là một đứa trẻ mồ côi được chưởng môn sư thái đời thứ hai của phái Cổ Mộ nhặt về nuôi và nhận làm đệ tử. Từ nhỏ cách ly thế tục, không vướng bụi trần, không lụy tình cảm, nét mặt thánh khiết, không sầu không vui, nhưng cũng ngây thơ vô cùng. Nàng luôn mặc một bộ đồ trắng muốt như tuyết, đêm ngủ trên chiếc giường hàn ngọc lạnh như băng. Luyện thành Ngọc Nữ Tâm Kinh, nhan sắc cứ luôn như ngọc nữ – chẳng bao giờ già. Nàng có khả năng điều khiển đàn ong mật sắc trắng. Tên "Tiểu Long Nữ" cũng là do sư phụ nàng đặt và nàng được yêu quý như thánh nữ.

 

Năm nàng 14 tuổi, sư phụ Tiểu Long Nữ vì bảo vệ mật thất Cổ Mộ đã qua đời. Bà để lại cho nàng chức chưởng môn và toàn bộ Mật thất Cổ Mộ. Lý Mạc Sầu muốn có được "Ngọc Nữ Tâm Kinh", bộ tâm pháp do Tổ sư Lâm Triều Anh để lại, phao truyền khắp nơi rằng sư muội là Tiểu Long Nữ đang mở hội tỷ võ chiêu thân. Người được chọn làm lang quân của nàng sẽ được thừa hưởng tất cả những võ công tuyệt diệu của phái Cổ Mộ tại núi Chung Nam. Hay tin đó, không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt trong thiên hạ lẫn hàng vương tôn công tử như Hoắc Đô cũng đến cầu hôn, gây bao nhiêu rắc rối cho đám đạo sĩ của phái Toàn Chân ở gần đó.

 

Cũng chính vào năm này, Quách Tĩnh đưa Dương Quá tới cung Trùng Dương học nghệ. Vì bị sư phụ cùng các sư huynh ăn hiếp, do đánh lại sư huynh, Dương Quá chạy trốn khỏi Toàn Chân Giáo. Chàng tình cờ lạc vào Mật thất Cổ Mộ và gặp Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ ban đầu không đồng ý cho Dương Quá ở lại.

 

Cậu bé Dương Quá sôi nổi nhiệt tình ấy đã khuấy động chốn Cổ Mộ âm u lạnh lẽo, khuấy động cả cõi lòng tịch mịch của Tiểu Long Nữ. Có Dương Quá, nàng không còn tĩnh tâm được nữa. Cô bắt đầu thầm nghĩ đến thế giới rộng lớn và náo nhiệt bên ngoài, thở dài với môn quy khiến suốt đời ở trong Cổ Mộ. Dần dần, tình cảm họ dành cho nhau trong lúc không biết không cảm thấy đã vượt quá danh phận sư đồ. Lạ thay, trong chốn thâm u chỉ có hai kẻ thanh xuân ấy vậy mà họ chưa từng có dù chỉ một ý nghĩ sắc dục về nhau. Kể cả khi hai người phải cởi bỏ xiêm áo để luyện “Ngọc Nữ Tâm Kinh” thì vẫn là “một kẻ lạnh lùng, một người cung kính”, chỉ cảm thấy việc đó là một nan đề chứ không có ý niệm gì khác. Đó là một tình yêu trong vắt đáng ngưỡng mộ của hai tâm hồn trinh bạch.

 

Dương Quá ( Dương Hóa ) là con trai duy nhất của Dương Khang tức Hoàn Nhan Khang và Mục Niệm Từ. Chàng từ nhỏ mồ côi cha mẹ, lẻ loi hiu quạnh, sau được Quách Tĩnh tìm thấy, là đệ tử nhập thất của Toàn Chân giáo, nhưng vì bất mãn với sư phụ lòng dạ hẹp hòi là Triệu Chí Kính, lại chịu đủ giày vò hành hạ nên ăn nói vô phép rồi trốn khỏi Toàn Chân, lạc vào Cổ Mộ, gặp được Tiểu Long Nữ và bái nàng làm sư phụ. Tuy vậy gọi là cô cô chứ không xưng sư đồ đã học được rất nhiều võ công. Mối tình sư đồ giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ bắt đầu từ đây. Mối tình này chịu sự kỳ thị, chèn ép của giang hồ vì nó đi ngược lại đạo nghĩa sư đồ truyền thống, nhưng Dương Quá không những một mực mặc kệ mà còn ngày càng yêu Tiểu Long Nữ hơn và quyết lấy nàng làm vợ dù ai có nói gì chăng nữa.

 

“Thơ đường luật sụt sùi xướng họa

Ghi họ tên hai đóa sen vàng

Tánh danh rành rẽ đôi hàng

Đưa nhau trở lại xóm làng mẹ mong

 

Trông nhờ cậu sầu đong hiu hắt

Đợi khoa sau thành đạt công danh

Tháng ngày cô quạnh mong manh

Phải thời tao loạn sao đành cam tâm

 

Từ lâu đã ngấm ngầm mưu chước

Vương Phục tên bán nước phản thần

Khom lưng luồn lọt Nữ Chân

Đem quân mọi rợ tiến gần Hà Đông“

 

Người Nữ Chân ở những vùng Mãn Châu và miền Bắc Triều Tiên. Họ thành lập nhà Kim. Nữ Chân gọi theo lối cổ, tiếng Mãn Châu là mới. Họ từng bị thì bị quân Mông Cổ tiêu diệt. Thế kỷ 17  Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ tộc Nữ Chân lập ra nhà Hậu Kim, sau đó con trai Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực đổi tên tộc Nữ Chân thành tộc Mãn Châu, tức dân tộc Mãn. Bộ tộc Ái Tân Giác La có nguồn gốc từ Mãn Châu, và tự coi mình là hậu duệ của tộc Nữ Chân, tộc người cai trị nhà Kim gần 5 thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Nỗ Nhĩ Cáp Xích và con trai là Hoàng Thái Cực, bộ tộc Ái Tân Giác La đã giành được quyền lãnh đạo các bộ tộc Nữ Chân ở vùng đông, và sau đó thông qua chiến tranh hay liên minh đã mở rộng phạm vi lãnh đạo đến tận khu vực Nội Mông ngày nay. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã thành lập các đội quân lớn và thường trực được gọi là "kỳ" để thay thế các nhóm lính nhỏ mà vốn trước đó chỉ là các phường thợ săn. Mỗi kỳ được nhận biết bởi một lá cờ với các màu sắc khác nhau như vàng, trắng, lam hay đỏ; chỉ có màu trơn hoặc thể hiện ranh giới. Ban đầu chỉ có bốn kỳ, về sau con số này tăng lên tám và được gọi là bát kỳ; các kỳ mới được thành lập khi người Mãn chiếm được một vùng đất mới, và cuối cùng có tổng cộng 24 kỳ chia đều cho 3 tộc là Mãn, Mông và Hán.

 

”Tần lão thần hiệp đồng các tướng

Bậc quân sư lương đống mẹo hay

Nữ Chân chẳng kịp trở tay

Thất điên bát đảo bủa vây bốn bề

 

Vương Phục chạy ê chề nhục nhã

Tần quân sư vội vã đuổi theo

Tương Châu một giải vắng teo

Có tòa miếu cổ hắt heo gió lùa

 

Thấy trên vách nhạt nhòa dòng chữ

Đề thơ sen ý tứ cao thâm

Xem ra khí chất ngang tầm

Tao đàn hội ngộ tri âm ở đời?

 

Nghe phảng phất nụ cười Đỗ Lý

Hồn thơ xưa thế kỷ mây bay

Múa gươm chén rượu cuồng say

Cánh hoa đào rụng vần xoay kiếp người

 

Tần thái khanh nghỉ ngơi trong miếu

Trúc mai hoa thanh điệu ngẩn ngơ

Bút lông sao chép bài thơ

Thu Băng Xuân Tuyết đợi chờ giai nhân

 

Bỏ vào tráp bần thần trong dạ

Tấm lòng cha vàng đá thương con

Tuổi vừa mười bốn trăng tròn

Thướt tha yểu điệu đào non yếm hồng

 

Con gái lớn gả chồng đúng cửa

Trái cầu xinh vừa lứa xứng đôi

Về dinh quan lớn bồi hồi

Phu nhân hoan hỉ tô bồi Tần gia

 

Đã ba tháng khai hoa mãn nguyệt

Dòng họ Tần tha thiết bấy lâu

Trăng soi vằng vặc trên lầu

Mừng người thắng trận mái đầu phong sương.“

 

Đỗ Lý tức là Đỗ Phủ và Lý Bạch hai vị tổ sư lớn về thơ đường luật 7 chữ 8 câu 5 vần.

 

 

Truyện Tình Hai Họ Dương Hà

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 45

 

Theo chiếu chỉ thi hương thi hội

Hoãn khóa này chẳng vội vàng chi

Bình yên sửa soạn tức thì

Con vừa đầy tháng thầm thì phu thê

 

Chuyện miếu thần tràn trề thi phú

Huyện Nam Khương sĩ tử tài năng

Nhà mình Xuân Tuyết Thu Băng

Xứng đôi vừa lứa mọi đằng phỉ phong

 

Bỗng tri huyện Nam Khương trình báo

Xin gặp quan nguyên lão đương triều

Sảnh đường mừng rỡ bao nhiêu

Họ Dương tường tận mọi điều kể ra

 

Tần thái công Dương Hà chắp nối

Sợi chỉ hồng mai mối huyện quan

Xênh xang cửu phẩm Trần Đoàn

Khắp nơi cáo thị hân hoan xa gần

 

Khóa thi hương cử nhân tuyển mộ

Lều chõng mừng tới đó ứng thi

Thủ khoa Trân Bửu nhất nhì

Hậu đường tri phủ thầm thì cầu hôn

 

Lễ tiểu khoa lâm môn song hỉ

Vẫn xưa nay kẻ sĩ tôn vinh

Lại còn thi hội thi đình

Anh em lạy tạ sự tình nghinh gia

 

Về thưa lại mẹ già với cậu

Chuyện trăm năm chẳng dấu diếm gì

Thu Băng Xuân Tuyết nữ nhi

Con quan nhất phẩm tuổi thì cập kê

 

Mừng khôn xiết hả hê cậu mẹ

Hai anh em tuổi trẻ nên người

Trần Đoàn rạng rỡ mỉm cười

Tần công nghe chuyện tỏ lời ngợi khen

 

Luận kinh thư luyện rèn sớm tối

Hai anh em chờ hội long vân

Thần đồng nức tiếng xa gần

Cử nhân hay chữ thôn lân dạt dào

 

Miền Hà Đông thi hào lương đống

Nơi sân Trình cừa Khổng thanh tao

Bàn dân thiên hạ xôn xao

Thám hoa bảng nhãn lại vào họ Dương

 

Trước đại sảnh Tần Công hoan hỉ

Nơi hậu đường thủ thỉ phu nhân

Thanh mai trúc mã Châu Trần

Thu Băng Xuân Tuyết bần thần ngẩn ngơ

 

Duyên hội ngộ đâu ngờ ba họ

Mối thâm giao tam giáo đại đồng

Ki tô Nho giáo sắc không

Thuyền tình xao xuyến mênh mông sóng đào

 

Đón mẫu thân nghẹn ngào hai trẻ

Nợ thanh khâm giọt lệ vơi đầy

Thi đình thấp thỏm canh chầy

Trạng nguyên mũ áo vui vầy mới thôi“

 

Ở bên Tàu các triều đại phong kiến vẫn thường tổ chức 3 kỳ thi liên tiếp trong năm gồm hương, hội, đình. Hương tuyển chọn tú tài, hội cử nhân còn đình là các tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa và trạng nguyên.

 

Khoa bảng Việt Nam là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Cho đến triều nhà Lý, nhà Trần, 3 tôn giáo là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều được coi trọng. Triều đình nhà Lý đã mở các khoa thi Tam trường để lấy người bổ làm quan. Sang đời Hậu Lê, Nguyễn thì Nho học độc tôn. Triều nhà Lê mở khoa thi kinh điển dành riêng cho các nhà tu hành một cách hạn chế. Đến thời vua Minh Mệnh, Nho học suy vi, đến khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương, tình trạng xã hội biến thiên nhanh chóng, Nho học nhường chỗ cho các học thuật mới.

Đời vua Gia Long chỉ có kỳ thi Hương, sau đó vua Minh Mạng mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy Tiến sĩ. Trước đây cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu…

 

2.4.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét