Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51
“Cũng lắm chước trừ tà diệt quái
Đạo của ta vạn đại thánh hiền
Tôn sư sách thuốc khảo biên
Sử gia hoạt pháp lưu truyền tới nay
(vietnamdatnuocmenyeu.blogspot.com) Việt Nam Đất Nước Mến Yêu. Thơ văn tôi viết, chỉ mong qúy vị nếu muốn trích dẫn xin ghi rõ đúng ngày tháng tôi sáng tác để tiện việc tra cứu đối chiếu với hoàn cảnh lịch sử, xuất xứ nào dẫn tới những cảm xúc sáng tạo này. Xin gửi lời chào thân ái và trân trọng tới cộng đồng mạng, tới những người con mang dòng máu Lạc Hồng.
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51
“Cũng lắm chước trừ tà diệt quái
Đạo của ta vạn đại thánh hiền
Tôn sư sách thuốc khảo biên
Sử gia hoạt pháp lưu truyền tới nay
Ngày Xuân Bộ Hành
Thơ Tết tặng Sư Thích Minh Tuệ và tăng đoàn sang Ấn Độ
Pháo ran đây đó tưng bừng
Đường sang Tây Trúc reo mừng sinh linh
Bao la thế giới vô hình
Tăng đoàn khất thực vô minh xóa nhòa
Không Cho Phép Đi Khất Thực
Kính tặng Sư Thích Minh Tuệ
Tùy theo bối cảnh thuận tu
Nhân tình thế thái thiên thu giãi bày
Con đường đức hạnh xưa nay
Sáu năm phát nguyện vui vày sớm trưa
Biết Phải Làm Sao?
Kính tặng Sư Thích Minh Tuệ
Hạnh đầu đà bỗng nhiên cản trở
Bị công ty bảo trợ không gian
Tự do thông suốt giang san
Thời gian giới hạn vô vàn khó khăn
Tại Sao Tôi Phải Khóc
Kính tặng Sư Thích Minh Tuệ
Tại sao tôi phải khóc?
Cứ mỗi bận thấy ngài
Phải chăng kiếp trần ai
Gắn bó tình ruột thịt?
Đất Trời Linh Ứng
Kính tặng Sư Thích Minh Tuệ
Tiếng sét vang dục giã tâm thức người
Thân giả tạm nằm yên không động đậy
Mười lăm phút đôi mắt thần đã thấy
Khoảng không gian cô quạnh biết bao nhiêu
Theo Bậc Chân Tu
Kính tặng Sư Thích Minh Tuệ
Nghìn năm mới có một người
Noi gương Đức Phật lệ rơi nhân loài
Đầu đà vẫn chẳng nguôi ngoai
Tận cùng khổ hạnh trần ai não nùng
Bài Ca Thi Nhân
Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 44
Hỡi các vị thần linh cao cả
Vũ trụ tình vàng đá phôi phai
Tiếng đàn muôn điệu trần ai
Thấm dần tâm trí khứ lai loài người
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 45
“Ngoài giả lạnh tứ chi khô họng
Nước đái vàng nhiệt nóng ngoài da
Trùm không khát nước đái ra
Nước trong hàn giả rõ là ấm chân
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 43
“E tả thực phân vân bối rối
Dễ sai ngoa tội lỗi sa bà
Các kinh đều có hỏa tà
Thuốc dùng xung khắc gây ra mọi đằng
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 41
“Chứng nan giải mọi phương cứu chữa
Kỳ Nhân Sư chan chứa tình người
Không hề nhầm lẫn tới nơi
Kê đơn bắt mạch trọn đời lương y
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 38
“Sách y học nhân tri bách bộ
Gía gương hình theo đó kê toa
Ngư khen như gấm thêu hoa
Nhớ lời Đạo Dẫn dạy ta rành rành
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 36
“Tổ sư dạy Hiên Kỳ trước hết
Quẻ Bào Hy phải thiệt tỏ tường
Tiều phu hỏi tượng Minh Đường
Là đồ khí hậu chủ chương lẽ gì?
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 34
“Hai bảy tuổi tóc dày răng cứng
Ba mươi hai gân vững lạ kỳ
Bốn mươi thì thận mới suy
Tóc răng đã mỏi tới kỳ da thô
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 32
“Bầy con buôn chiếm phần lợi lạc
Đám nhà giàu kiếm chác đánh hơi
Đất đai hoàng tộc khắp nơi
Vương tôn công tử ăn chơi điếm đàng
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 30
“Kê đơn thuốc lắm tiền đủ vị
Khinh kẻ nghèo thần trí vật vờ
Coi qua con bệnh xác xơ
Thiếu tiền bỏ mặc bơ vơ linh hồn
Sách y thư bảo tồn nòi giống
Bệnh phong lao kèn trống điêu linh
Gặp may thày thuốc tận tình
Kịp thời chữa chạy chúng sinh đền nghì
Tiền trả trước phong bì biếu xén
Thuốc giả kê bỏn xẻn ít nhiều
Lọc lừa chẩn trị lắm chiêu
Coi thường mạng sống đủ điều sai ngoa
Bậc lương y kê toa bắt mạch
Cốt cứu người ân trạch cho không
Nhớ câu:” Y tích âm công”
Thuốc châm môi cọp mắt rồng tổ xưa
Bệnh dịch hạch chẳng chừa ai cả
Từ vua quan vương bá công thần
Lan tràn đoạt mạng thứ dân
Đại phu bốc thuốc xa gần ngóng trông
Nước trong nguồn mênh mông trời biển
Lòng mẹ hiền thánh thiện chân như
Quán âm bồ tát nhân từ
Lương y trọng trách thiên tư cam lồ
Biết bao kẻ tham ô hủ bại
Tàn sát dân thuốc sái điêu ngoa
U mê tăm tối mù lòa
Độc quyền thống trị vác loa tuyên truyền
Y thuật cao thuốc tiên cứu mạng
Đạo lương y tỏ rạng đến nay
Ngư tiều may mắn lắm thay
Nhập Môn chỉ bảo chuyên tay thạo nghề
Khoa châm cứu mọi bề sáng tỏ
Khắp toàn thân vạch rõ chân kim
Tinh tường huyệt đạo nổi chìm
Gặp người mỡ béo phải tìm cho ra
Ngư nhà đạo thiết tha cứu độ
Tiếng của thày đây đó chẳng hư
Dồi dào phúc đức có dư
Nghìn năm bia đá công tư vẹn toàn
Tiều cảm kích hân hoan học thuật
Kỳ Nhân Sư đáng mặt tôn sư
Nhập Môn âm chất không từ
Đạo lành công đức thực hư giãi bày
Cõi người ta đắng cay thân thế
Kẻ giàu thương đốt khế nợ lâu
Người già bạc trắng mái đầu
Canh gà xao xác dãi dầu tuyết sương
Lúa nhập kho luân thường phát chẩn
Cứu đói người lận đận khổ đau
Nhường cơm sẻ áo cho nhau
Thí quan thí dược trước sau trọn lòng.“
Quán âm bồ tát: Quán Thế Âm nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian" là một vị Bồ-tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn thân nữ, Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ-tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31
“Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc
Cánh chim di thân thuộc giống nòi
Phận bèo nhân phẩm trọng coi
Đại phu bốc thuốc mặn mòi quê hương
Giúp mai táng thê lương cố quốc
Vợ chôn chồng bạc phước hầu non
Bạn bè làng xóm héo hon
Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo
Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ
Án dân oan thống khổ phũ phàng
Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng”
Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh
Hận ngút trời điêu linh xã hội
Hôn quân kia tội lỗi gây ra
Triều đình hủ bại quan nha
Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim
Đất U, Yên đắm chìm năm tháng
Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa
Dân đen giọt lệ nhạt nhòa
Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng
Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm
Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân
Nhân Sư nổi tiếng xa gần
Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ
Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại
Khắc bia son quan tái gốc trời
Đạo con hiếu thuận muôn nơi
Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương
Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu
Học Chu Công dấu chú mọi đằng
Noi gương Văn Vũ Thành Thang
Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà“
Tăng Tử tên thật là Tăng Sâm tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học trò xuất sắc của Khổng Tử. Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong "Nhị thập tứ hiếu" nghĩa là hai mươi tư tấm gương hiếu thảo vì truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động lòng. Tăng Tử kế thừa và phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng của Tăng Tử đề cao chữ hiếu, tín. Ông thường nói:
-"Mỗi ngày ta xét thân ta ba việc: Nhận làm thay người ta việc gì, ta có thực tâm làm không? Cùng với bè bạn giao ước điều gì, ta có thất tín không? Thầy dạy ta những gì, ta có nghiên cứu học tập không?
Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp hay Tử Tư làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư (cùng với Luận Ngữ, Đại Học, Mạnh Tử).
Có lần bà mẹ đánh ông, ông khóc nức nở. Ngạc nhiên bà mẹ dừng roi và hỏi: --“Sao từ trước đến nay ta đánh chẳng bao giờ con khóc mà hôm nay con lại khóc?“
Thưa mẹ:
- “Mấy lần trước con đau nên biết mẹ còn khỏe nay con không thấy đau nữa nên thương mẹ đã già yếu.“
Ông thật là người con chí hiếu!
Chu Công tên thật là Cơ Đán còn gọi là Thúc Đán , Chu Đán hay Chu Văn công. Ông là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ vương Cơ Phát lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị từ tay nhà Thương.
Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp Tân vương là Chu Thành vương xây dựng và phát triển nhà Chu. Hình ảnh của ông tiêu biểu cho tấm lòng trung quân phò chúa, không sinh dị tâm, thường được hậu thế về sau nhắc đến cùng với Y Doãn nhà Thương. Nhà Chu dưới sự nhiếp chính của ông đã vươn lên thành một nước mạnh mẽ, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng nên nền văn minh China rực rỡ về sau. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của văn minh China (Tàu) khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công, quên đi cái tên Cơ Đán, khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.
“Học họ Ngu gian tà né tránh
Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao
Tiếng thơm công đức dồi dào
Con lành cháu thảo tự hào tổ tông
Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy
Lấy âm công nhờ cậy gốc nho
Sách tra Vĩnh loại nhiều pho
Thể nhân vị lục học trò anh minh
Ngư hỏi việc bất bình chế độ
Bầy quan tham quốc khố chia nhau
Giả vờ từ thiện làm màu
Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền
Xây chùa to đảo điên miếu mạo
Khói nhang đèn lếu láo ê a
Làm chay hát bội thí ra
Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo
Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu
Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư
So câu: “ tích thiện hữu dư”
Cho vay một vốn lợi từ mười phân.“
Họ Ngu là một triều đại bán sơ khai của người Tàu trong thời kỳ Thiện nhượng, sau nhà Đường và trước nhà Hạ
Hữu Ngu: tên một quốc gia bộ lạc từng tồn tại suốt từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến cuối đời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc
Nước Ngu: tên một nước chư hầu nhà Chu, Chu Vũ Vương phân phong cho Cơ Trọng (hậu duệ Ngô Thái Bá), đời Xuân Thu bị Tấn Hiến Công tiêu diệt cùng điển tích "mượn đường phạt Quắc" nổi tiếng.
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 28
“Đạo Dẫn ca lội sông năm ngựa
Bậc tài danh ngang ngửa khi nào
Mặc gia tuấn kiệt anh hào
Oai phong lẫm liệt họ Đào còn ai?
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 27
“Chiều xuân vương Di Hoa lẫn lộn
Thánh kinh càng bộn rộn trong ngoài
Thịnh suy dễ chẳng nguôi ngoai
Hết cơn bĩ cực thái lai lại về
Trở Về Nhà
Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 34
Người thủy thủ bao năm xa cách
Nay trở về hiển hách quang vinh
Chim bay hoa bướm rung rinh
Đảo hoang thu hoạch hành trình đại dương
Vào Một Ngày
Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 23
Vào một ngày nhởn nhơ mây trắng
Ánh sáng mờ chạng vạng tấc gang
Núi rừng xơ xác bẽ bàng
Cây không mọc được hành lang đắm chìm
Chiều Hoang Dại
Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 13
Ngồi lặng lẽ căn lều bóng mát
Bác thợ cày vẻ mặt nhu mì
Cầm tay điếu thuốc nhâm nhi
Chuông chiều hiếu khách thầm thì bên tai
Ba Mụ Phù Thủy
Cảm xúc thơ Theodor Fontane bài 14
Giờ thứ bảy hội mùa ngạ quỷ
Ba mụ già phù thủy gặp nhau
Bắc nam tàn phá nhịp cầu
Đến từ mặt biển đoàn tàu tiêu tan
Rượu Mừng Lễ Hội
Cảm xúc thơ Theodor Fontane bài 37
Rượu cứ rót say xưa lễ hội
Hoàng tử thơ trăn trối đôi lời
Tình yêu tình bạn cuộc đời
Mục tiêu cao đẹp loài người tôn vinh
Hàng Rào Mâm Xôi
Cảm xúc thơ Theodor Fontane bài 27
Hai nhà chung một bức tường
Mâm xôi ngăn cách yêu đương thuở nào
Khu vườn hoa bướm xôn xao
Tôi đưa quả mọng môi đào nụ hôn
Sẽ Không Gì Cả
Cảm xúc thơ Theodor Fontane bài 17
Sẽ không có sáng tạo
Bởi những giấc mơ buồn
Quỷ thần dẫn linh hồn
Xuống huyệt sâu tăm tối
Túp Lều Trên Bờ Biển
Cảm xúc thơ Theodor Fontane bài 7
Túp lều trên bờ biển
Cồn cát trắng nhấp nhô
Ánh trăng sáng mơ hồ
Nhợt nhạt qua cửa sổ
Lu Hà và Raier Maria Rilke
Mãnh Thú Rừng Xanh
Cảm xúc thơ Rilke bài 1
Con báo của rừng xanh
Một thời từng chinh phạt
Qua các song cửa sắt
Thẫn thờ mệt mỏi nhìn
Quê Hương Tôi
Cảm xúc thơ Heine bài 51
Tôi từng có quê hương tươi đẹp
Cây sồi già khép nép chùm hoa
Thiết tha màu tím chan hòa
Mỉm cười âu yếm nhạt nhòa nắng mưa
Truyện Ẩn Tích
Cảm xúc thơ Heine bài 41
Truyện xin kể từ thời trai trẻ
Nơi rừng già vắng vẻ thiên nhiên
Lạc vào thế giới thần tiên
Vòng hoa tỏa sáng thôi miên trên đầu
Đất Khách Quê Người
Cảm xúc thơ Heine bài bài 31
Vì sao phải tha phương cầu thực
Sự sinh tồn thao thức tâm can
Sông hồ rừng thẳm bạt ngàn
Quê hương bỏ lại giang san mịt mờ
Vì Tình Yêu
Cảm xúc thơ Heine bài 21
Mỗi ngày người đẹp bước qua
Quốc vương con gái mang quà tặng cho
Đài cao phun nước tự do
Các nô lệ cũng khỏi lo bị đòn
Ba Vua
Cảm xúc thơ Haine bài 11
Ngựa thồ sản vật ân cần
Qua bao thị trấn dấn thân bụi hồng
Bầu trời vô tận mênh mông
Non xanh nước biếc cánh đồng làng quê
Babylon
Cảm xúc thơ Heine bài 1
Babylon đế chế
Im lặng lúc nửa đêm
Lâu đài thật êm đềm
Hãnh diện bữa ăn tối
Điều kiện Cần Có
Cảm xúc thơ Herder bài 301
Thuận tiện chuyến ra khơi
Con tàu mong gió thổi
Người lái thì nổi trội
Để may mắn thành công
Văn Chương
Cảm xúc thơ Herder bài 291
Văn chương là vương quốc
Chan chứa Flora
Nền khoa học ngợi ca
Trăm đóa hoa thảo mộc
Trần Trụi
Cảm xúc thơ Herder bài 281
Ngọn núi ngồi trần trụi
Hắt hiu cảnh nghèo nàn
Thôn xóm cảnh bần hàn
Giọt sương rơi lã chã
Nấm Mồ Hiu Quạnh
Cảm xúc thơ Herder bài 271
Dập dìu bướm trắng nghẹn ngào
Xinh tươi mười sáu ngấn đào ngẩn ngơ
Bông hồng chớm nở bơ vơ
Glorher vẫn thẫn thờ nhắn nhe
Truyện Thần Apollo
Cảm xúc thơ Herder bài 261
Ai xứng đáng nhận vòng nguyệt quế
Niềm hân hoan vị nể nhân loài
Tấm lòng tỏa sáng khứ lai
Đẹp lòng tiên nữ hương lài thoảng bay
Giấc Mộng Của Tôi
Cảm xúc thơ Herder bài 251
Đêm qua tôi đến gặp nàng
Người yêu bé nhỏ thiếp chàng ái ân
Linh hồn lãng đãng phong vân
Thướt tha yểu điệu Thái Chân thuở nào
Hãy Thức Dậy
Cảm xúc thơ Herder bài 241
Hãy thức dậy biển đen
Nghẹn ngào về quá khứ
Tức tưởi đừng do dự
Khát khao trái tinh cầu
Giấc Mơ
Cảm xúc thơ Herder bài 231
Có ai sống mà không hề yên nghỉ
Hãy ngủ say trong những lúc bình an
Tỉnh dậy đi thế giới vẫn ân cần
Đừng tuyệt vọng trong màn đêm thui thủi
Thiên Thần Nghệ Thuật
Cảm xúc thơ Herder bài 221
Bởi nghệ thuật trên trời bay xuống
Đôi cánh thần dang rộng đại bàng
Bàn dân thiên hạ sẵn sàng
Rome kiêu hãnh xênh xang mái vòm
Dân Tộc Đức
Cảm xúc thơ Herder bài 211
Dân tộc Đức ngái ngủ
Giật mình nhìn xung quanh
Thách đố bởi làn ranh
Khôn ngoan người chiến thắng
Vì Sao Sáng
Cảm xúc thơ Herder bài 201
Hoàng tử Leopold
Một thiên thần vĩ đại
Với tấm lòng bác ái
Xả thân cứu dân nghèo
Bướm Trắng Linh Hồn
Cảm xúc thơ Herder bài 191
Con bướm trong ngôi mộ
Thầm thì với linh hồn
Xin bạn đừng bồn chồn
Thiên đường đầy quyến rũ
May Mắn
Cảm xúc thơ Herder bài 181
Cưỡi cỗ xe hy vọng
Ai tìm bạn đồng hành
Hạnh phúc ấy mong manh
Dây an toàn buộc chặt
Thần Tình Yêu
Cảm xúc thơ Herder bài 171
Nguồn gốc của tình yêu
Thấy Cupid xinh đẹp
Người mẹ hiền cho phép
Hãy mang nó tới đây
Cái Nhìn Đích Thực
Cảm xúc thơ Herder bài 161
Mặt trời thành méo mó
Mây xám xịt phản quang
Sự lừa dối bẽ bàng
Nhợt nhạt từng tia sáng
Hãy Lắng Nghe
Cảm xúc thơ Herder bài 151
Ôi bức màn không khí
Mây dày phủ lấp che
Chim chóc hãy lắng nghe
Tự do có thể mất
Thể Loại
Cảm xúc thơ Herder bài 141
Nhìn vẻ mặt thơ ca
Con ong là biểu tượng
Bông hồng thành thiên hướng
Phân biệt giữa anh tôi
Người Bạn Tốt
Cảm xúc thơ Herder bài 131
Truyện kể Guinea
Một người Anh bị ốm
Lều cỏ khô lốm đốm
Bạn da đen trung thành
Ánh Mắt Không Lời
Cảm xúc thơ Herder bài 121
Ánh mắt ấy không lời
Để làm nên số phận
Em chớ nên tủi hận
Trong đêm tối mênh mông
Mặt Trăng
Cảm xúc thơ Herder bài 111
Mặt trăng lặng lẽ chìm sâu
Niềm vui yên nghỉ trong bầu không gian
Chúng sinh hạnh phúc chứa chan
Xóa dần mệt mỏi bần hàn khổ đau
Mến Thương Đợi Chờ
Cảm xúc thơ Herder bài 101
Vì sao khó nói nên lời
Cùng nhau ân ái một thời khó quên
Người là thục nữ thuyền quyên
Kẻ thì anh tuấn thần tiên nhà trời
Aí Tình Trên Mộ
Cảm xúc thơ Herder bài 91
Thần Cupid Psyche kỳ ngộ
Gặp nhau trên ngôi mộ thế gian
Giấc mơ tình ái nồng nàn
Hồn mây sóng nước chứa chan nhân loài
Nữ Công Tước Ở Rome
Cảm xúc thơ Herder bài 81
Công tước Amalia
Ở Roma mơ ước
Khao khát làm sao được
Herder một hồng y
Tưởng Rủi Hóa May
Cảm xúc thơ Herder bài 71
Đội chiến binh tinh nhuệ
Sẵn sàng đến từ Anh
Vịnh Hudson giao tranh
Peluse đột nhập
Nhân Phẩm
Cảm xúc thơ Herder bài 61
Thế gian đầy bạo lực
Đạo đức giả lên ngôi
Theo dòng đời nổi trôi
Chàng Timo bi phẫn
Đợi Chờ Hoa Xuân
Cảm xúc thơ Herder bài 51
Vẳng lời chung thủy sắt son
Trăm hoa đua nở nước non phai màu
Trai thanh gái lịch theo nhau
Quản chi mưa nắng nát nhàu cỏ cây