Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 198

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

 

“Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu

Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi

Biết ngay phủ ấy tả tơi

Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu

 

Do ăn uống nạp nhiều tạp chất

Để toàn thân bần bật rã rời

Hơi thừa bủa khắp ba nơi

Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào

 

Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu

Ngấm vào trong phải hiểu từng toa

Mười hai kinh lạc điều hòa

Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?

 

Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ

Còn liệu chừng tam phủ âm dương

Làm sao y thuật hiền lương

Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?

 

Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực

Bến ngũ hành ý thức nhân sinh

Mộc kim thủy hỏa thổ trình

Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay

 

Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ

Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra

Thủy về mộc lại thiết tha

Đất trời sinh sản bao la vô cùng

 

Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy

Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim

Kim xa mộc lại đi tìm

Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh

 

Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết

Việc dữ lành thống thiết muôn loài

Tử sinh trong cõi trần ai

Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm

 

Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ

Khéo khen thay tay thợ ngũ hành

Phải coi sách ấy cho rành

Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi

 

Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận

Phải tinh tường chủ vận là chi?

Thiên can mười chữ có ghi

Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai

 

Sinh ra được một trai một gái

Năm phương càng chẳng ngại âm dương

Giáp cùng ất mộc đông phương

Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương

 

Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ

Canh tân kim vẫn ở tây phương

Thuận theo tạo vật vô thường

Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.“

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9

 

“Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận

Suy ngẫm ra thân phận con người

Trần gian dở khóc dở cười

Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa

 

Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận

Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh

Ba ngày Mang chủng thành hình

Ai hay Thổ vận rập rình theo sau

 

Sáu ngày tới Lập thu Kim vận

Chín ngày đầu lận đận Lập đông

Khen thay tạo vật hóa công

Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền

 

Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ

Vợ hợp chồng vàng đá trước sau

Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau

Hóa ra vận Thổ một màu sắt son

 

Ất Canh lại héo hon lòng dạ

Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm

Bính Tân xem cũng chẳng lầm

Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ

 

Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý

Bướm hoa sầu bi lụy khi mô

Bởi năm hóa tạo ô hô

Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn

 

Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh

Mộc thành rừng toan tính sau đây

Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy

Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam

 

Suy sét ra từng năm vận khách

Tính theo niên đành hạch chi ai

Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai

Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?

 

Thổ sinh Kim vận nhi là vậy

Kim  sinh thành thủy ấy vận ba

Thủy sinh mộc nảy gần xa

Rừng cây chen chúc đó là vận tư

 

Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch

Bảy mươi hai ngày tính năm nay

Lại dư năm khắc nào hay

Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra

 

Bao năm nữa đều là như thế

Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi

Đổi thay thay tinh tú các vì

Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành

 

Giáp  bính mậu nhâm canh thái quá

Bất cập đành nhân quả dương phân

Năm đinh ất kỷ quý tân

Còn bao trắc trở  về phần âm can

 

Phải biết được đaị hàn trước tiết

Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên

Rồi sau tính đến hậu thiên

Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn“

 

 

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10

 

“Đất có hậu thế gian trời định

Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?

Ngư tiều đến ải Địa Chi

Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo

 

Rừng âm u hắt heo chủ khí

Cỏ đá chen vị trí đổi thay

Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay

Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa

 

Dần Mão Mộc sim mua nở rộ

Tiếng ve sầu tu hú gọi hè

Hương thu thân dậu kim khoe

Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền

 

Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh

Tứ quý càng hiển hách từng mùa

Luân phiên sáu đợt ấn bùa

Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân

 

Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa

Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba

Viêm oai hừng hực sơn hà

Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem

 

Dương minh tới lom lem khô héo

Thái dương hàn khí kéo rèm bưng

Hân hoan uống chén rượu mừng

Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn

 

Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt

Cứ từng năm giành dựt trời an

Luân phiên từ tiết đại hàn

Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu

 

Hơi bình chẳng trước sau tuần tự

Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên

Bảo rằng “binh khí chi niên”

Để cho chủ tử  chính chuyên canh phòng

 

Từ sáu cặp thong dong xung đối

Xây vòng chia chẳng vội định ngôi

Ô hay khách khí xa xôi

Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm

 

Xây một tòa thái âm quân hỏa

Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm

Thái dương hàn thủy xuống tầm

Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên

 

Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa

Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời

Quyết âm xuống đất muôn nơi

Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu

 

Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ

Ngược lại như chăng chớ tuất thìn

Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn

Đất trời u ám kìn kìn mây đen

 

Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa

Dưới trần gian kim táo hai nơi

Cầm quyền khí bốc lên trời

Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào

 

Ta cũng biết âm hao sáu khí

Nam bắc kia ngọ tý chi niên

Tuần hoàn ra thế liên miên

Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.“

 

Cũng tương tự như phần 197 thì phần 198 này tôi xin miễn bình giảng về những thuật ngữ y học tên các vị thuốc đông y đọc bằng chữ nho. Tập thơ cuả tôi cảm xúc sáng tạo ra từ tập Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ lục bát dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thế Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư ông, làm tiều phu, sau đó gặp được Châu Đạo Dẫn, Đường Nhập Môn và Kỳ Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.

 

Xưa nay sách thuốc rất nhiều, nên những người làm nghề thuốc không khỏi thở than về nỗi quá nhiều sách. Nếu học không có căn bản, thì khi chữa bệnh sẽ ngơ ngác như dựa vào khoảng không, cưỡi trên mây trên gió, không biết đâu mà lường là điểm dừng nữa.

 

 Nhìn chung, bệnh có nhiều biến hóa hư hư thực thực, nên phương có cách chữa chính, chữa phụ, chữa gốc , chữa ngọn, nên công, nên trước, nên sau, phải dùng cho phù hợp. Xét trị chỉ sai một chút thì sống chết khác nhau ngay, há chăng nên cẩn thận sao ? Cho nên nghề làm thuốc chỉ cốt tuỳ cơ ứng biến mà thôi.

 

 Bậc hiền nhân triết gia thuở trước thường nói :

-"Tâm của người thầy thuốc giỏi giống như viên tướng có tài, mà phép dùng thuốc cứu người cũng tựa phép dùng binh đánh giặc".

Phép dùng binh có khi đánh thẳng, có khi dùng mưu; dùng thuốc cũng vậy có lúc chữa bệnh chính, có lúc chữa biến chứng. Vốn không học phép dùng binh thì không thể thắng trận được.

 

Phần này mục đích chính là để chèn những băng Video được nghệ sĩ Thu Hà diễn ngâm vào Youtube nếu có. Còn ngâm trực tiếp vào Facebook thì tôi vẫn chưa biết cách chuyến sang Youtube để chèn vào từng phần thơ được chính tác giả là Lu Hà tôi tự bình giảng.

 

9.4.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét