Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 8
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
“Ép bọng đái thấy dơ nước tiểu
Kinh thái dương tiết niệu hoả hơi
Biết ngay phủ ấy tả tơi
Từ trên xuống giữa dưới thời tam tiêu
Do ăn uống nạp nhiều tạp chất
Để toàn thân bần bật rã rời
Hơi thừa bủa khắp ba nơi
Đứng ngồi không vững máu tươi ứa trào
Phải kê đúng thuốc sao đặc hiệu
Ngấm vào trong phải hiểu từng toa
Mười hai kinh lạc điều hòa
Giúp cho tạng phủ giao thoa thế nào?
Ngư Tiều hỏi tâm bào kinh thủ
Còn liệu chừng tam phủ âm dương
Làm sao y thuật hiền lương
Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư?
Đạo Dẫn bảo Nhân Sư chứng thực
Bến ngũ hành ý thức nhân sinh
Mộc kim thủy hỏa thổ trình
Hiểu cho cặn kẽ muôn hình vần xoay
Mộc sinh hỏa ai hay thành thổ
Thổ sinh kim hội ngộ thủy ra
Thủy về mộc lại thiết tha
Đất trời sinh sản bao la vô cùng
Mộc khắc thổ mịt mùng thổ thủy
Thủy chẳng ưa hỏa lụy chân kim
Kim xa mộc lại đi tìm
Mộc đâu giá lạnh im lìm chúng sinh
Tiếng quạ kêu hôi rình xác chết
Việc dữ lành thống thiết muôn loài
Tử sinh trong cõi trần ai
Cỏ cây muông thú u hoài ngàn năm
Máy tạo hóa trăng rằm sáng tỏ
Khéo khen thay tay thợ ngũ hành
Phải coi sách ấy cho rành
Dịch kinh hà lạc thuần thành mới thôi
Aỉ Thiên Can mấy hồi Ngũ Vận
Phải tinh tường chủ vận là chi?
Thiên can mười chữ có ghi
Anh em thứ lớp nhất nhì chẳng sai
Sinh ra được một trai một gái
Năm phương càng chẳng ngại âm dương
Giáp cùng ất mộc đông phương
Bính thì đinh hỏa tỏ tường nam phương
Mậu kỷ thổ trung ương thấu tỏ
Canh tân kim vẫn ở tây phương
Thuận theo tạo vật vô thường
Cùng nhâm quý thủy bắc phương ý trời.“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 9
“Năm ngôi chủ chẳng dời thời vận
Suy ngẫm ra thân phận con người
Trần gian dở khóc dở cười
Nghìn năm vương vấn như lời thơ xưa
Tiết Đại hàn đến chưa Mộc vận
Trước ba ngày vận Hỏa hận thanh minh
Ba ngày Mang chủng thành hình
Ai hay Thổ vận rập rình theo sau
Sáu ngày tới Lập thu Kim vận
Chín ngày đầu lận đận Lập đông
Khen thay tạo vật hóa công
Muôn hình vạn trạng dõi trông mọi miền
Cứ năm nhà túc duyên kỳ lạ
Vợ hợp chồng vàng đá trước sau
Giáp chàng nàng Kỷ cưới nhau
Hóa ra vận Thổ một màu sắt son
Ất Canh lại héo hon lòng dạ
Mộc cây trầm sỏi đá Đinh Nhâm
Bính Tân xem cũng chẳng lầm
Thủy tràn lai láng lâm dâm sông hồ
Vầng quang hỏa anh Mồ Chị Quý
Bướm hoa sầu bi lụy khi mô
Bởi năm hóa tạo ô hô
Đôi bờ ân ái nhấp nhô sóng vờn
Giàu tiền bạc chập chờn Kim mệnh
Mộc thành rừng toan tính sau đây
Thủy tuôn cuồn cuộn ngập đầy
Hỏa thành ngọn lửa bấy chầy phương nam
Suy sét ra từng năm vận khách
Tính theo niên đành hạch chi ai
Gỉa như Giáp Kỷ trúc mai
Hóa ra hành Thổ khứ lai kể gì?
Thổ sinh Kim vận nhi là vậy
Kim sinh thành thủy ấy vận ba
Thủy sinh mộc nảy gần xa
Rừng cây chen chúc đó là vận tư
Mộc sinh hỏa luận từ kinh dịch
Bảy mươi hai ngày tính năm nay
Lại dư năm khắc nào hay
Lấy năm Giáp Kỷ lời thaỳ nói ra
Bao năm nữa đều là như thế
Phải coi chừng nặng nhẹ vân vi
Đổi thay thay tinh tú các vì
Ai hay xoay chuyển mấy khi ngũ hành
Giáp bính mậu nhâm canh thái quá
Bất cập đành nhân quả dương phân
Năm đinh ất kỷ quý tân
Còn bao trắc trở về phần âm can
Phải biết được đaị hàn trước tiết
Mười ba ngày khẩn thiết thái tiên
Rồi sau tính đến hậu thiên
Hai mươi sáu chẵn hậu tiên giao bàn“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 10
“Đất có hậu thế gian trời định
Cậy khôn ngoan mưu tính cái gì?
Ngư tiều đến ải Địa Chi
Thấy non lục khí đường đi ngoằn ngoèo
Rừng âm u hắt heo chủ khí
Cỏ đá chen vị trí đổi thay
Mỉm cười Đạo Dẫn cho hay
Có mười hai chữ vần xoay bốn mùa
Dần Mão Mộc sim mua nở rộ
Tiếng ve sầu tu hú gọi hè
Hương thu thân dậu kim khoe
Tiết đông hợi tý nước be dũng tuyền
Thìn tuất sửu mùi liên đất lạnh
Tứ quý càng hiển hách từng mùa
Luân phiên sáu đợt ấn bùa
Líu lo chim chóc gió lùa nắng xuân
Lửa phừng phừng tới tuần quân hỏa
Tiết xuân phân chuyển hóa hai ba
Viêm oai hừng hực sơn hà
Thái âm mưa móc cửa nhà nhá nhem
Dương minh tới lom lem khô héo
Thái dương hàn khí kéo rèm bưng
Hân hoan uống chén rượu mừng
Trai thanh gái lịch tưng bừng kết hôn
Sáu hơi chủ thần hồn chẳng dứt
Cứ từng năm giành dựt trời an
Luân phiên từ tiết đại hàn
Chính trong ngày ấy giao ban khí đầu
Hơi bình chẳng trước sau tuần tự
Sách Tàu ghi hai chữ tề thiên
Bảo rằng “binh khí chi niên”
Để cho chủ tử chính chuyên canh phòng
Từ sáu cặp thong dong xung đối
Xây vòng chia chẳng vội định ngôi
Ô hay khách khí xa xôi
Mong cho tý ngọ bồi hồi thiếu âm
Xây một tòa thái âm quân hỏa
Sửu đối mùi đe dọa thiếu âm
Thái dương hàn thủy xuống tầm
Đùng đùng sấm chớp mưa dầm liên miên
Dần đối thân hoàng thiên tướng hỏa
Khí thiếu dương phong tỏa giữ trời
Quyết âm xuống đất muôn nơi
Mộc truyền lan khắp xanh tươi một màu
Năm mão dậu nhạt nhòa tý ngọ
Ngược lại như chăng chớ tuất thìn
Đắn đo tỵ hợi mỏi nhìn
Đất trời u ám kìn kìn mây đen
Giữ hoàng thiên vốn quen quân hỏa
Dưới trần gian kim táo hai nơi
Cầm quyền khí bốc lên trời
Tư thiên tả hữu chơi vơi nẻo nào
Ta cũng biết âm hao sáu khí
Nam bắc kia ngọ tý chi niên
Tuần hoàn ra thế liên miên
Đất xung bên tả lan truyền khí sơ.“
Cũng tương tự như phần 197 thì phần 198 này tôi xin miễn bình giảng về những thuật ngữ y học tên các vị thuốc đông y đọc bằng chữ nho. Tập thơ cuả tôi cảm xúc sáng tạo ra từ tập Ngư Tiều y thuật vấn đáp (Ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là truyện thơ lục bát dài của Nguyễn Đình Chiểu. Hai nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thế Triền vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư ông, làm tiều phu, sau đó gặp được Châu Đạo Dẫn, Đường Nhập Môn và Kỳ Nhân Sư truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời.
Xưa nay sách thuốc rất nhiều, nên những người làm nghề thuốc không khỏi thở than về nỗi quá nhiều sách. Nếu học không có căn bản, thì khi chữa bệnh sẽ ngơ ngác như dựa vào khoảng không, cưỡi trên mây trên gió, không biết đâu mà lường là điểm dừng nữa.
Nhìn chung, bệnh có nhiều biến hóa hư hư thực thực, nên phương có cách chữa chính, chữa phụ, chữa gốc , chữa ngọn, nên công, nên trước, nên sau, phải dùng cho phù hợp. Xét trị chỉ sai một chút thì sống chết khác nhau ngay, há chăng nên cẩn thận sao ? Cho nên nghề làm thuốc chỉ cốt tuỳ cơ ứng biến mà thôi.
Bậc hiền nhân triết gia thuở trước thường nói :
-"Tâm của người thầy thuốc giỏi giống như viên tướng có tài, mà phép dùng thuốc cứu người cũng tựa phép dùng binh đánh giặc".
Phép dùng binh có khi đánh thẳng, có khi dùng mưu; dùng thuốc cũng vậy có lúc chữa bệnh chính, có lúc chữa biến chứng. Vốn không học phép dùng binh thì không thể thắng trận được.
Phần này mục đích chính là để chèn những băng Video được nghệ sĩ Thu Hà diễn ngâm vào Youtube nếu có. Còn ngâm trực tiếp vào Facebook thì tôi vẫn chưa biết cách chuyến sang Youtube để chèn vào từng phần thơ được chính tác giả là Lu Hà tôi tự bình giảng.
9.4.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét