Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 200

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

 

“Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ

Có hai mươi vị đủ chi dùng

Ở trong thú vật bổ sung

Chín mươi mốt giống mật cùng da xương

 

Phải kể đến gan lòng tim phổi

Nào ba mươi bốn cội cánh lông

Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng

Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời

 

Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu

Mễ cốc kia công hiệu cứu đời

Ba mươi tám giống là nơi

Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi

 

Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo

Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo

Cộng mười hai bộ trời cho

Một ngàn bốn vị trong lò hóa công

 

Xưa có họ Thần Nông cao nhất

Đã thay trời trị vật yêu dân

Trải qua độc vị thế gian

Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương

 

Biết bao vật âm dương nếm thử

Chẳng đắn đo do dự cứu người

Dò tìm cây cỏ khắp nơi

Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi

 

Đã thành hình nằm vùi dưới đất

Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua

Sát sao cách thức theo mùa

Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn

 

Nhóm vị cay dễ tan trong nước

Chua hay thâu mặn được nhuễn liền

Đắng thường vội vã nóng lên

Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường

 

Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết

Mặn đắng chua nhất thiết là âm

Có khi dương ở trong âm

Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay

 

Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng

Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng

Giữ cho sáu tính tương thông

Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng

 

Đừng lạc lối mê cung tả thực

Bổ hay hư tỉnh thức trên giường

Cho hay tính thuốc nhiều đường

Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra

 

Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa

Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm

Có mùi cay mát giữ cầm

Mỏi  mòn hơi gió âm thầm nửa phong

 

Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt

Lửa hừng lên phải biết hậu môn

Đất nơi cửa thấp ướt dồn

Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.“

 

Thần Nông  còn được gọi là Thần Nông thị, Liên Sơn thị, Tắc thần, thường được biết với tên gọi Viêm Đế, là một trong Tam Hoàng. Khác với Phục Hy và Nữ Oa, ông là vị Tam Hoàng duy nhất có hình thù là con người toàn vẹn, không nửa người nửa thú như 2 vị kia. Thần Nông cũng là người có đầu giống đầu bò, sừng nhọn, trán đồng, đầu sắt, đuôi bọ cạp, chân rết . Theo Tư Mã Trinh thì Thần Nông làm vua 140 năm, khi mất táng tại Trường Sa (nay thuộc tỉnh Hồ Nam). Kinh đô ban đầu đặt tại đất Trần, sau dời tới Khúc Phụ. Hậu duệ của ông truyền được 8 đời kéo dài 520 năm cho đến khi Hiên Viên Hoàng Đế nổi lên . Thần Nông có 1 người con gái tên là Tinh Vệ.

 

Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như phát triển nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông thường bách thảo, giáo nhân y liệu dữ nông canh. Thần Nông nếm trăm cây thuốc, dạy dân trồng ngũ cốc). Vì thế, ông còn được xưng là Dược vương, Ngũ Cốc vương, Ngũ Cốc Tiên Đế hay Thần Nông đại đế.

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15

 

“Nếu cảm thấy khô khan cửa táo

Đường hàn môn lạo xạo băng sương

Ưá trào vị đắng táo hương

Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa

 

Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ

Năm vị này úy ố trái nhau

Có mười tám vị trước sau

Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha

 

Sách sử ghi lời ca ố úy

Mười tám bài hệ lụy phản nhau

Nào là bán hạ qua lâu

Ai hay  bối mẫu chân cầu tử sinh

 

Này bạch cập rập rình bạch liễm

Cả hai đều xâm chiếm ô đầu

Nguyên hoa hải tảo từ đâu

Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày

 

Vị cam thảo càng day dứt thuốc

Các lọai sâm bạch thược trái ngang

  lô quả thật phũ phàng

Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu

 

Hồn ma khóc âm u gió thổi

Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun

Phác tiêu cửa ải mây đùn

Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương

 

Mật đà tăng bất lương lang độc

Ba đậu kia thảm khốc xiết bao

Khiên ngưu chăng hợp kết giao

Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim

 

Kinh tam lang nổi chìm khó hợp

Với nha tiêu từng hớp thuốc thang

Nực cười tê giác lăng xăng

Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô

 

Ngũ linh chi từng tô đáng sợ

Với nhân sâm họa đó ích gì

Điều hòa quan quế nhâm nhi

Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh

 

Gặp thạch chi hóa thành công cốc

Phải dày công bốc thuốc chuyên tay

Học hành chăm chỉ tháng ngày

Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng

 

Ngư cho rằng từng thang thuốc quý

Phải đúng liều chẳng lụy đến thày

Vài toa bệnh đã dừng ngay

Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường

 

Câu đối chứng lập phương cần nhớ

Quân thần kia tá sứ đo lường

Vua tôi hòa hợp một đường

Đừng gây tạo phản bất lương hại người

 

Nay ta mở các ngươi mấy cửa

Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ

Phức cùng hoãn cấp sờ sờ

Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn

 

Tễ là bổ chu toàn thành thạo

Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi

Bảy phương mười tễ biết rồi

Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16

 

“Phải thấu hiểu tận tường gốc rễ

Các mẫu hình vị tễ từ đâu

Cân đo bào chế sắc mầu

Chớ nên nhầm lẫn dao cầu khéo tay

 

Dùng muối mặn gừng cay mật ngọt

Đủ dấm chua rượu rót chế liền

Nấu hầm than nướng lửa chiên

Ngấm vào kinh lạc đáng tiền chi ra

 

Mật ong thấm ruột rà phế vị

Muối thì vào thận trị dấm can

Nước gừng ngấm tới tỳ quan

Rượu hoà nước tiểu ngập tràn tâm kinh

 

Muốn công hiệu phân minh ngũ vị

Thuốc đã dùng thần trí phải tinh

Đun sôi nấu chín do mình

Giữ gìn thể trạng bệnh tình chóng quên

 

Ăn uống sạch cũng nên nhất thiết

Chất mặn nhiều khí huyết sẽ tăng

Cay thì hơi xịt lăng xăng

Hại xương chát đắng mọi đằng kiêng khem

 

Kìa dưa chua thòm thèm lưỡi miệng

Ngọt coi chừng từng miếng thịt thăn

Mọi điều cặn kẽ khuyên răn

Cổ kim rành rẽ can ngăn đã nhiều

 

Lắm của ngọt bấy nhiêu bệnh tật

Thuốc uống vào thành thật ăn dè

Kiểm tra nhiều món khắt khe

Tham ăn tục uống chỉ e hại mình

 

Nếu trong thuốc truật linh giả dụ

Tỏi dấm mùi dễ sợ không ưa

Uống trà  phải tránh quả dưa

Hoàng liên phảng phất quyết chừa bò heo

 

Cát cánh ấy chẳng theo hành sống

Địa hoàng xa mấy vống cải kia

Thịt trâu, Ngưu tất chia lìa

Xương hầm măng củ bên rìa chó dê

 

Thói quen hay bộn bề khắc thuốc

 thịt cá dầu mỡ buộc bỏ ngay

Trái cây rau sống ai hay

Kiêng khem thì khá tháng ngày bền lâu

 

Ta xin nói một câu huân tập

Bệnh tất tòng khẩu nhập giữ mình

Bốc từng thang thuốc cho tinh

Thuận theo thủy hỏa sinh linh tận tường

 

Đẩy dương số tiên phương mới thật

Tâm pháp thành thực chất xưa nay

Cao minh y thuật chuyên tay

Tiện bề vấn đáp sách hay để đời

 

Thày đã dạy bao lời ưu ái

Bậc cao nhân chẳng trái lương tâm

Mong trò y thuật tới tầm

Cứu nhân độ thế tình thâm giống nòi.“

 

Vì hoàn cảnh vùng đất mênh mông  U, Yên bị chia cắt và đặt dưới sự đô hộ của Triều Liêu nên Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược đi làm nghề đốn củi, đánh cá  để mưu sinh nuôi gia đình. Chẳng may cả hai người vợ con bị ốm đau nhiều và chết chóc, nên cả hai người đều muốn đi tìm  học nghề thuốc. Họ đều có ý định đi tìm Kỳ Nhân Sư là một thầy thuốc rất giỏi và cũng là người đất U, Yên đi ẩn cư. Mộng Thê Triền và Bảo Tử Phược là hai người bạn cũ, bị hoàn cảnh loạn ly mà xa cách nhau từ lâu, gặp lại nhau trên đường đi tìm Nhân Sư. Dọc đường họ gặp thêm hai bạn cũ có cùng mục đích là Châu Đạo Dẫn và Đường Nhập Môn. Cả mấy người cùng dắt nhau đi tìm Nhân Sư. Đạo Dẫn và Nhập Môn là những người đã biết chỗ ở của Nhân Sư. Vì họ đã đều biết thuốc, nên trên đường đi Ngư, Tiều hỏi chuyện về y học rất nhiều. Đạo Dẫn và Nhập Môn lần lượt trả lời những câu hỏi của Ngư, Tiều và giải thích một cách rõ ràng nhiều điểm về lý luận y học cơ bản, kèm theo ca, phú mà phần chính lấy ở y học nhập môn ra.

 

Giữa đường, Đạo Dẫn tìm đường đi luyện linh đan học phép tu tiên, còn Ngư, Tiều thì theo Đường Nhập Môn tiếp tục đi đến Đan Kỳ để tìm Kỳ Nhân Sư, Nhưng khi đến nơi thì Nhân Sư đang bị bệnh và lánh ở Thiên Thai, song họ được gặp lại Đạo Dẫn ở đây. Hỏi ra mới biết là Nhân Sư không phải là bị bệnh thật mà là vì vua Liêu nghe tiếng cho sứ đến mời Nhân Sư vào làm Ngự Y, nhưng Nhân Sư không muốn làm tôi kẻ thù nên đã xông hai mắt cho mù, rồi lánh về ở Thiên Thai và lưu học trò là Đạo Dẫn ở lại Đạo Kỳ để từ chối với sứ Tây Liêu.

 

 Tập thơ truyện của tôi lấy tên là “Y Đức Hai Họ Mộng Bào“ cảm xúc theo tập truyện thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu có tên l à “Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp“.                               Cụ Nguyễn Đình Chiểu sinh trưởng giữa lúc thực dân Pháp đang xâm lược Việt Nam. Chúng đánh hải cảng Đà Nẵng, Gia Định. Hồi ấy ông đang dạy học ở Gia Định, phải chạy về quê vợ ở Cần Giuộc (gần Chợ Lớn) lánh nạn và tiếp tục dạy học ở đó. Những năm đó Cần Giuộc cũng bị quân Pháp chiếm, ông lại phải chạy về Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, Vua Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông nhượng cho Pháp. Tuy vậy Pháp vẫn tiếp tục mưu đồ xâm lược. Sau đó chúng chiếm luôn cả ba tỉnh còn lại của Lục Tỉnh thuộc Nam Kỳ. Vậy là cả Lục Tỉnh Nam Kỳ bị Pháp đô hộ.

 

Cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng như hầu hết đồng bào miền Nam lúc bấy giờ vô cùng căm phẫn. Ông rất đau xót về tình cảnh đất nước bị chia cắt, nhân dân khổ cực tang thương.  Bị giặc tàn sát, đàn áp, bức hiếp, phần bị đói rét, bệnh tật, chết chóc… Ông lại bị mù, không thể cầm vũ khí giết giặc, nên dùng bút thay gươm, viết văn làm thơ để nói lên lòng yêu nước thương dân và nỗi oán hận của mình đối với quân cướp nước và triều đình nhà Nguyễn nhu nhược.

 

“Ngư Tiều Vấn Đáp Y Thuật” ra đời vào khoảng thời gian sau khi Nam Kỳ đã bị Pháp xâm chiếm. Trong tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã mượn bối cảnh của đất nước U, Yên ở bên Tàu đời nhà Tấn bị ngoại bang xâm chiếm, dựng lên câu chuyện mấy người dân xứ này đi lánh nạn và cũng tìm thầy học thuốc, để dưới hình thức nói chuyện về y học, thổ lộ lòng căm phẫn của mình đối với thời cuộc, nhằm cổ súy tinh thần đấu tranh chống xâm lăng của đồng bào, đồng thời cũng để nói lên sự lưu tâm của mình đối với tính mạng của người bệnh trước tình cảnh các băng nhóm lang băm vụ lợi, nhằm vực đỡ tình trạng y học thời gian đó.

 

Phần thơ này tôi thấy không cần thiết bình giảng nhiều về các loại dược thảo đơn thuốc v.v… Khán giả phải tự tra từ điển Hán Việt để hiểu các câu chữ trong thơ. Thời gian của tôi là để tiếp tục sáng tác tiếp cho xong bộ truyện thơ dài này.

 

9.4.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét