Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 58
Đường Nhập Môn vẻ vang sản hậu
Một khoa riêng trần cấu bấy nay
Tổ sư có lắm vị hay
Chứng nào thuốc ấy uống ngay khỏi liền
Nghe tâm pháp thày truyền hậu thế
Nguyên ba điều ta kể ra đây
Một là máu trống hỏa đầy
Cuồng kinh nóng táo thân gầy xác xơ
Chứng bại huyết bơ phờ mệt nhọc
Vọng hành tăng kêu khóc đầu đau
Chân tay bụng cứng bám nhau
Ăn nhiều uống lắm trước sau tới cùng
Hay nôn mửa ba xung ba cấp
Chiếu chăn thành hầm hập rên la
Xung vì bại huyết mà ra
Xung tâm, xung phế thật là thảm thương
Cấp mới đẻ thê lương phiền não
Thổ tả càng nhệu nhạo mùi hôi
Tổ xưa dùng thuốc chữa rồi
Có ba việc cấm than ôi tạc lòng
Thang phật thủ xin mong đừng bốc
Vị xuyên khung cực độc chẳng lành
Xuyên khung tán khí đã đành
Lại hay phát hãn rắp ranh hư nhèm
Thang tứ vật hay kèm trong thuốc
Địa hoàng quen thược dược dụng sinh
Chẳng hiềm sống lạnh máu kinh
Ngặt thời phải dụng chín mình chế đi
Khí huyết suy sau khi chửa đẻ
Thược dược chua lạnh sẻ tửu sao
Cấm dùng thang tiểu sài hồ
Hoàng cầm tính mát ngăn hồ huyết đi
Bệnh dày vò tật di dơ dáy
Lời huấn kinh thày dạy chớ quên
Mấy mùi dược tính chẳng hiền
Chớ cho xâm nhập vào miền tam tiêu
Biểu chứng phạm bao điều giả tượng
Có rất nhiều hình tướng y thư
Xưa nay có mấy tôn sư
Trị khoa hậu sản như từ Đan Khê
Dòng Chu tử hành nghề tỏ rõ
Đẻ về sau khá bổ máu hơi
Gốc làm mạch chủ thảnh thơi
Quản chi tạp chứng về nơi ngọn ngành
Thật cao minh ngọn xanh bền gốc
Bá thuật cùng thuốc bốc thiên uyên
Ngợi khen mạch quyết lưu truyền
Bao người sản hậu nhân duyên mất còn
Ngư lại hỏi trẻ con lẫm chẫm
Một hai ba tuổi nhẩm chưa đầy
Đau thời coi hổ khẩu tay
Cho hay thực chỉ vằn bày chứng cai.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
2.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 59
Phép coi gái hữu trai bên tả
Trỏ lóng ba ngón ngả ba quan
Phong quan lóng gốc thế gian
Lóng nhì ải khí ba bàn mệnh quan
Vằn xanh ngang gió can quá mức
Bỗng đỏ vằn nóng nực ran mình
Vằn xanh đỏ loạn chứng kinh
Vằn hồng bợt nhạt ấm mình bụng đau
Vằn lóng gốc trị mau khỏi bệnh
Phải nhanh tay chớ chểnh mảng lâu
Vằn qua ngón giữa chuyển mầu
Hơi tà chạy đến càng rẫu rĩ than
Bắn lên trảo, giáp nan giải lắm
Chứng nguy này thê thảm hài nhi
Vằn đen như mực loạn bì
Lấn vào ba ải đông y hoảng rồi
Biết chừng ấy mà thôi chẳng rõ
Còn cách nào đâu đó bệnh tình
Môn rằng: Con trẻ mới sinh
Máu hơi còn yếu mạch hình khó coi
Giáp năm cũng có người mắc chứng
Thật đớn đau đi đứng hay ngồi
Xem ra bệnh đã nặng rồi
Gân xương mạch lạc lần hồi mở ra
Kỳ Nhân Sư nhi khoa giỏi trị
Khí sắc coi vị trí mạch kinh
Tướng xem trên huyệt Tình minh
Thấy trong tạng phủ bệnh tình chữa ngay
Xem ngón tay bấy nay biếng nhác
Thày rờ xem mạch Sác có không
Sác cùng chẳng sác coi ròng
Sác cao bốc nhiệt sác không khí hàn
Một ngón tay thong dong ba mạch
Hơi thở đều tách bạch điều hòa
Hai lần là thoát chẳng ngoa
Ba lần là thốt nhạt
nhòa mồ hôi
Bốn lần tổn than ôi năm đó
Gọi là hư chăng chớ vấn vương
Sáu lần không bệnh bình thường
Bảy lần bệnh nhẹ tám đương cận cài
Từ chín đến mười hai sẽ chết
Phép coi này nhất thiết tinh thông
Ngư bàn sách ấy thuần dương
Về phần trẻ nhỏ bệnh thường nhiệt dâm
Tiểu nhi ca tình thâm nòi giống
Bệnh trẻ con kinh động thống phong
Tich đờm cổ họng không thông
Cam sài giun sán mênh mông vô cùng
Sao kể hết chập chùng biển cả
Kiếp con người vàng đá phôi phai
Khen cho con tạo cắm cài
Âm dương kín chữ trần ai muôn hình.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
3.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 60
Ngư suy ngẫm âm tinh thấu đặng
Chữ âm này để tặng tiểu nhi
Chờ ngày thiên quý tới kỳ
Tinh thông sáng tỏ đền nghì âm dương
Sách ghi rõ thông thường bổ dưỡng
Đọc kỹ thì thuận nhượng thơ ngây
Tính âm luận ngữ chưa đầy
Trẻ con người lớn bệnh gây chẳng đồng
Vốn chẳng hại bên trong tình bảy
Sáu dâm kia hết thảy luận tà
Một mai ngoại cảm chẳng qua
Cam, kinh, thổ, tả, tích hòa trường đông
Thời hàn cảm thử phong tích nhiệt
Đậu chẩn sang cấp thiết đơn ban
Cản ngăn tạp bệnh lan tràn
Có mười lăm chứng nguy nan rập rình
Ta đơn cử tử sinh cụ thể
Mạch chẩn chờ xin kể ra đây
Trên mi mắt nổi vằn dây
Đỏ lừ chạy suốt lấp đầy con ngươi
Sưng mỏ ác phù nơi dưới ngực
Kể cả khi đau nhức phập phồng
Mũi khô đen sạm bụng gồng
Gân xanh chằng chịt lộn tròng mắt lên
Nhìn không chuyển thường xuyên đờ đẫn
Móng sạm đen chen lấn chân tay
Đột nhiên mất tiếng ai hay
Lưỡi thè ngoài miệng nhớt nhày chảy ra
Trẻ nghiến răng kêu la hay cắn
Thở phì phò ỉa rặn phân chim
Ngáp như cá, bỗng im lìm
Giun thò miệng mũi bóng chìm hồn ma
Chết tức tưởi mẹ cha bất lực
Thày thuốc càng ráng sức cứu người
Than ôi, mười đứa chết mười
Bệnh này khó chữa cảnh đời thê lương
Mười sáu chứng khác thường khinh trọng
Bệnh chứng này trông ngóng nhiều phương
Chẳng qua hư thực hai đường
Chứng hư chứng thực từng chương rạch ròi
Chẳng sai ngoa hẳn hoi công luận
Mười bệnh thường lấn bấn mãi hoài
Chín hư một thực gái trai
Ví như đầu tháng dằng dai vẫn còn
Khắp muôn nơi trăng non ló rạng
Mở lòng gương thực trạng chưa ra
Dạng tròn vành vạch sơn hà
Bổ nhiều, tả ít, theo tà thực hư
Thuốc nhi khoa nhẫn từ sư tổ
Để ngày nay chứng tỏ mọi đằng
Cao thâm y thuật thung thăng
Cảm ơn liệt vị cung hằng sáng soi
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
4.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 61
Trẻ ấu thơ mặn mòi cá nước
Đức hiếu sinh thao thức lòng trời
Tổ sư bào chế cứu đời
Bệnh nào thuốc ấy rạch ròi xưa nay
Lợi thế tục nhiều thày chẳng ngại
Lang băm càng tác hại tiểu sinh
Kỳ Hoàng đạo học chứng minh
Khen thay trị bệnh thấu hình thực hư
Đơn thuốc hay chân như cứu độ
Danh tiếng thơm sư tổ ghi công
Học trò rõ chước biến thông
Huyền vi y thuật mênh mông tấm lòng
Kiếp nhân sinh long đong trời đất
Thuốc nhi đồng sài giật nóng ban
Tử kim đĩnh, khỏi luận bàn
Quánh đờm ho nặng gian nan vô cùng
Bệnh sởi đậu phải dùng trợ vị
Lở lưỡi môi từng tí nhẹ nhàng
Kê đơn hóa độc đúng thang
Bảo long tinh tán thung thăng đáng tiền
Thiên châm hoàn, giảm liền nôn mửa
Sốt hãm luôn cứu chữa tới nơi
Nên dùng lô hội kịp thời
Chứng cam nên nhớ rạch ròi trước sau
Thuốc đã có phải mau ứng dụng
Ngư với Tiều tìm đúng phương hay
Hai chàng gặp bạn là may
Nhập Môn ưu ái tháng ngày chỉ cho
Đệ tử ruột tài cao uyên bác
Kỳ Nhân Sư tọa lạc nơi nao?
Ngư Tiều cảm khái dạt dào
Mong thày trở laị nghẹn ngào lệ sa
Khắp thiên hạ trăm nhà ngưỡng mộ
Bạn của thày tri cố hai ông
Họ tên là Hưởng Thanh Phong
Ảnh Minh Nguyệt lão tinh thông y truyền
Chẳng vướng bụi thiên nhiên tạo hóa
Bậc chân nhân tỏa đóa hoa mai
Thanh tâm khí tượng anh tài
Mỗi người một vẻ gót hài thần tiên
Thày ta vẫn thường xuyên thăm viếng
Với bạn hiền nức tiếng gần xa
Sẵn lòng Sào, Hứa ngâm nga
Tề, Di mát mặt trăng ngà bể dâu
Ba mươi sáu cung bầu hạc lỷ
Hưởng Thanh Phong tri kỷ mấy ai
Kỳ Nhân Sư một thiên tài
Ảnh Minh Nguyệt cũng hương lài thoảng bay
Vòng hối thực men say thoát khỏi
Đời tối bưng le lói bình minh
Ngẩn ngơ nhìn lại bóng mình
Mây lồng đáy nước lung linh góc trời
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
5.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 62
Hai mươi tám sao chơi bốn biển
Chán hư danh hiện diện dáng hình
Gương thềm ngọc thỏ lung linh
Vầng trăng sáng tỏ cung nghinh tiếng đàn
Nhập Môn đang chứa chan thơ đọc
Bỗng khách đâu mời mọc thỉnh cầu
Chúa Liêu triệu đến sân chầu
Tôn sư rầu rĩ mái đầu tuyết sương
Chức thái sư Liêu vương ép buộc
Bổng lộc nhiều bốc thuốc kê đơn
Tôn sư căm giận oán hờn
Dật dờ sớm tối chập chờn bóng mây
Lòng bi phẫn bấy chầy thân phận
Kỳ Nhân Sư tủi hận chẳng ra
Dân tình thống khổ kêu la
Cửa nhà tan nát sơn hà giá băng
Thày cáo bệnh chẳng màng chức tước
Sợ triều đình ngờ vực sinh nghi
Nhập Môn chẳng rõ bệnh gì?
Vội vàng chuẩn bị ra đi thăm người
Ngư Tiều cũng tức thời biện lễ
Huynh đệ càng tri kỷ tương thân
Đan Kỳ theo lối đi gần
Gió nồm nam thổi đằng vân ráng chiều
Trời miền tây tiêu điều cảnh vật
Làn hơi sương phảng phất hồ sen
Non Kiều cây mọc cỏ chen
Hang sâu vực thẳm bao phen tuyết dày
Hươu vào động hạc bầy về núi
Ba người vừa cắm cúi bước vào
Thấy ngay Đạo Dẫn đón chào
Mời vào y quán nghẹn ngào trước sau
Thày chẳng chịu tự mù đôi mắt
Chốn thiên thai đóng chặt cửa thiền
Xông hai mắt đỏ triền miên
Sứ Liêu cũng chịu lụy phiền não thân
Cảnh nước mất nhà tan tang tóc
Dân lầm than kêu khóc khổ đau
Oán cừu thù hận theo nhau
Trẻ già trai gái dãi dầu nắng mưa
Nhập Môn nghe nhặt thưa lã chã
Giọt thương người lọ đá nát lòng
Trách thầm Minh Nguyệt Thanh Phong
Không ngăn cản được, hai ông phụ thầy
Không cố khuyên để vầy sao nỡ
Cảnh mù lòa món nợ y khoa
Tật tàn đôi mắt ướt nhòa
Di, Tề ẩn dật muối rau qua ngày
Nơi non Thú ai hay cam chịu
Chẳng chịu quỳ bám víu nhà Chu
Quản chi rừng núi âm u
Mai danh ẩn tích thiên thu u hoài.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
5.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 63
Đơì chiến quốc tranh tài vương bá
Danh chẳng sờn sắt đá kinh luân
Như ông Qủy Cốc ẩn thân
Học trò tuấn kiệt non gần đỉnh xa
Núi Thương Sơn bao la hùng vĩ
Bốn lão phu an trí tuổi già
Công danh chi nữa đá bia
Nào ai ràng buộc bên rìa tử sinh
Thú cày câu mặc tình lộc Hán
Nghiêm, Châu cùng lánh nạn công hầu
Tiên sinh Ngũ Liễu dãi dầu
Gặp cơn Tấn loạn mái đầu bạc phơ
Đào tể tướng hững hờ phú quý
Tướng sơn trung quy lụy phiền ai
Chúa Lương khuất lễ vật nài
Mới ra giúp sức trổ tài công huân
Tùy vô đạo dấn thân dạy học
Họ Vương kia khó nhọc Phần Hà
Luyện rèn mưu sĩ tại nhà
Trúc Lâm chén rượu nhân hà sầu ly
Bọn Lan Đình nhung y lả lướt
Thơ nhạc say sướt mướt với ai
Bụi Hồ vẩn đục chi hoài
Hành tàng hai chữ nguôi ngoai nỗi lòng
Hãy gỡ bỏ hết vòng danh lợi
Vật ngoài thân chới với bạc tiền
Sống cùng non nước thần tiên
Chính tâm an tọa sầu miên khước từ
Thuở Yêu Ly riêng tư khác biệt
Khổ nhục nào nhất thiết trừ hung
Lo âu tiếng nhạc mịt mùng
Như ông Sư Khoáng đường cùng thảm thay
Tự xông khói mù ngay đôi mắt
Trời nỡ lòng xiết chặt dây oan
Sao không dốc sức khuyên can
Để cho Sư Phụ tật tàn bấy nay?
Đạo Dẫn than giãi bày mọi lẽ
Nào ngờ đâu rành rẽ lời hay
Thày rằng: Trời đất xưa nay
Vần xoay khí vận đổi thay chính tà
Vũ trụ luận nhân hà thế tục
Xen hình hơi thúc giục trôi ra
Hiếu sinh con tạo thiết
tha
Dưới là ngũ nhạc trên là tam quang
Đường chính đạo thênh thang ta bước
Còn cách nào tỉnh thức lê dân
Yêu ma ác quỷ vô thần
Xâm lăng lấn chiếm giết dần chúng sinh
Đời ngũ đế thái bình thịnh trị
Là bởi vì vận khí thịnh lên
Nhân hòa hợp với hoàng thiên
Ba giềng năm dạy tự nhiên an lành
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
6.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 64
Khi vận ách trời xanh u ám
Đầy gian truân ảm đảm châu đông
Ghe keo lạc Sở mênh mông
Bảy hùng năm bá tranh công lấp dòng
Hết nhân nghĩa đỏ lòng xanh vỏ
Bầy cáo chồn mọi rợ vô luân
Thánh hiền nấp bóng dấu thân
Cọp trong rừng vắng khí phân rối nùi
Chịu cơ cầu phanh phui đâu dám
Sự đời càng thê thảm thương đau
Tôi loàn con giặc tranh nhau
Hơi tà ngăn bủa bạc màu sơn khê
Hơi chính đâu dãi dề năm tháng
Chẳng còn nhiều cay đắng ê chề
Than ôi! Cái giản nước tề
Ba lần quan sử nối đề “ thí vua“
Vua nước Tấn đối đầu trước hết
Làm đồng hồ ngòi viết biên ra
Chính cây chùy Bác Lãng Sa
Trương Lương vì chúa đánh xa Tần Hoàng
Bay phần phật Tô lang cờ tiết
Nô đọa đày thảm thiết gian nan
Mất đầu lão tướng Nghiêm nhan
Trương Phi uất khí ngút ngàn bể khơi
Chẳng chịu nhục ngậm cười chín suối
Chính khí dâng dong duổi
đế y
Máu trào Kê Thiệu cứu nguy
Cảo Khanh miệng lưỡi lâm ly chúa mình
Thường Sơn kia cực hình chửi giặc
Miệng Trương Tuần bạo tặc thất kinh
Tuy Dương khảng khái bất bình
Mắng bầy giặc dữ Quản
Ninh kém gì
Thời Tam quốc tru di cửu tộc
Mất ô sa thảm khốc điêu linh
Chính làm tờ biểu xuất chinh
Ra quân bắc phạt Khổng Minh phất cờ
Chèo Tổ Địch sang bờ dẹp loạn
Diệt Yết Đê táng tận lăng loàn
Qua sông cái hốt họ Đoàn
Chặn đầu quan hoạn mưu gian soán Đường
Hơi chính khí vấn vương tỏa sáng
Ngọn lửa hồng bi tráng dấu ghi
Một trường oanh liệt phù trì
Nên câu ”thiên trụ địa duy” vững vàng
Dòng hơi chính lang thang tản mạn
Lạc xa đàng tao loạn sói mòn
Dửng dưng thời cuộc nước non
Chia năm sẻ bảy héo hon dường nào
Vòng phú quý lao xao nhầy nhụa
Cảnh triều đình nhớp nhúa gian thần
Sớm tôi, tối chúa vô luân
Mua quan bán tước bất nhân lộng quyền
Quỳ mọp lạy hoàng thiên thánh thượng
Mưa móc xin ban thưởng tước vương
Chúa Liêu kiêu ngạo khinh thường
Lê dân bách tính thê lương hãi hùng
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
8.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 65
Dân bị ép tận cùng dầu mỡ
Khô xác ve nức nở đọa đày
Mưa dầm nắng dãi lắt lay
Tan đàn sẻ nghé đắng cay nỗi niềm
Giặc Khiết Đan gọng kiềm xích sắt
Sưu thuế cao xiết chặt đôi vai
Bầy đàn xu nịnh lâu đài
Tai ương reo rắt trong ngoài lấn chen
Gió đồng nội bao phen cỏ lác
Vong quốc nô ngơ ngác đất trời
Ngựa xe đao kiếm muôn nơi
Đất đai giành giật tả tơi xác người
Khí hôn quân chơi vơi quang nhạc
Sấm mùa đông hạ lạc tuyết bay
Năm giềng ba mối heo may
Sống thừa Y Phó loay hoay cuốc bờ
Ta là kẻ bơ vơ xứ sở
Phải cúi đầu tôi tớ người ta
Còn đâu lãnh thổ sơn hà
Vợ con thất lạc cửa nhà nát tan
Chịu cơ cầu bần hàn sớm tối
Cứu dân nghèo lặn lội đó đây
Mặn mòi như bát nước đầy
Nỗi lòng ai oán canh chầy thở than
Phận lương y chứa chan tình nghĩa
Dân tộc mình thấm thía tử sinh
Trí quân hai chữ điêu linh
Trạch dân đau đớn thân hình dở dang
Suốt năm canh mơ màng thổn thức
Giọt lệ rơi nao nức sóng dồi
Tự do đôi cánh bồi
hồi
Lồng son cũi sắt phận tôi chúa người
Thà đui mù thảnh thơi cất bước
Dù kẻ thù bạo ngược nhiễu nhương
Còn đâu trật tự kỷ cương
Bàng môn tả đạo bất lương hoành hành
Chẳng thấy cảnh dân lành tang tóc
Giặc xâm lăng cướp bóc thẳng tay
Thái y nô bộc hàng ngày
Tham chi chức ấy đọa đày não thân
Quyết giữ trọn tinh thần thể xác
Sống làm chi nhận giặc làm cha
Bán hồn cho quỷ ác ma
Mù lòa trọn nghĩa ông cha đạo nhà
Danh tiếng giữ thiên hà sông núi
Chẳng hổ lòng luồn cúi ngoại xâm
Cha con cốt nhục tình thâm
Còn hơn sáng mắt nhẫn tâm lạc loài
Sáng đôi mắt tham tài đắm sắc
Thói a dua ngơ ngác hàng thần
Quan nha cầu cạnh hại dân
Vào ra luồn cúi Nữ Chân cáo chồn
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
9.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 66
Lũ ươn hèn luồn trôn cẩu tặc
Sống làm chi reo rắc thị phi
Bon chen nhân nghĩa bỏ đi
Thảo ngay chẳng biết tôn ti khinh thường
Trái thiên luân bất lương vô đạo
Bầy hắc nô điên đảo thế nhân
Ta đây giữ trọn tinh thần
Thà cùng tạo hóa phong trần hư vô
Gọi Đạo Dẫn dặn dò sau trước
Nối nghiệp thày cốt được lòng dân
Anh em non nước xa gần
Lương y từ mẫu cứu nhân độ người
Phận ta già thảnh thơi ngày tháng
Chẳng bận lòng cay đắng xót xa
Lánh xa thế tục quan hà
Lần hồi sớm tối bóng tà tịch dương
Ngư, Tiều hỏi Thanh Phong Minh Nguyệt
Rằng hai ông chẳng biết làm sao
Khoanh tay giọt lệ ứa trào
Ý thày đã quyết nghẹn ngào triết nhân
Thày chẳng những bảo thân giữ đạo
Lại khen người chu đáo vẹn toàn
Y lời thánh đức hiền nhân
Nước an kẻ trí, loạn thần giả ngu
Xưa cũng lắm đui mù câm điếc
Gỉa ốm đau chẳng tiếc thân mình
Lánh xa bổng lộc triều đình
Hôn quân vô đạo dân tình lầm than
Nay phải buổi gian nan xã tắc
Hoa mão di lầm lạc phai mầu
Nắng mưa cây cỏ dãi dầu
Xuân Thu giữ phép mái đầu bạc phơ
Sống chẳng để nhuốc nhơ tiên tổ
Chớ coi thường ngồi đó đui rồi
Hôn quân đạo tặc mấy hồi
Trời con hơi chính gửi đôi mắt thầy
Đợi thúc quý tan mây quang đãng
Sông sẽ trong biển lặng bao la
Mắt thày tức khắc sáng ra
Thanh Phong Minh Nguyệt thiết tha tặng người
Thuở tinh chiên cảnh đời tao loạn
Truyện trăm nhà đại nạn tha phương
Mấy ai trọn dấu thư hương
Tròng đôi mắt thịt tấm gương đạo nhà
Tần đế nhường danh gia họ Lỗ
Hán vương đâu biết rõ thầy Trương
Thôi đành ẩn dật tìm đường
Kiền khôn một túi bốn phương cậy nhờ
Thấy hai lão làm thơ đường luật
Tỏ lòng thành chân thật xiết bao
Nhân Sư đáng bậc nho hào
Ngư Tiều ngưỡng mộ dạt dào mưa sa
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
10.5.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 67
Rung hạt lệ xót xa cây cỏ
Trời đất sầu kim cổ khóc than
Kính thày Sư Miện đằng vân
Chiếu, thềm chớp giật thánh nhân cảm lòng
Sách Bân phong Chu công chỉ bảo
Dạy kẻ mù theo đạo Thành vương
Xôn xao đệ tử bốn phương
Trăm vua công dụng vào đường Nhạc sư
Bởi “đạo tâm” chân như hai chữ
Thầy đui mù lặng giữ lỗi chi
Thánh hiền nể trọng kiêng vì
Mặc bầy ngu xuẩn khinh khi chê cười
Tiều muốn đến tận nơi thăm hỏi
Việc trăm năm làn khói âm hao
Việc đời oan ức mãi sao?
Nuôi mầm hy vọng nghẹn ngào cơ duyên
Chuyện nước nhà căn nguyên nguồn gốc
Nỗi niềm đau tang tóc triền miên
Chẳng hay chính sự U, Yên
Hai ông thấu hiểu thần tiên ý trời
Bất khả lậu hỏi người đâu dễ
Máy thiên cơ chẳng để lộ ra
Hai thày đã chỉ dạy ta
Một bài thơ sấm thiết tha năm vần:
“Năm quý đua cờ pháo ngựa qua
Hai vua một gánh gửi vai bà
Trời nam có thẻ cây sơn cắm
Đất bắc còn vàng cốt đính pha
Con thú một sừng binh mới gặp
Cái người một mắt đá chưa ra
Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng
Bốn biển âu ca hợp một nhà”
Đạo Dẫn đọc sâu xa ý nghĩa
Giải từng câu thấm thía lẽ trời
Thịnh suy phần cũng do người
Đến đâu biết vậy sự đời hỏi chi?
Ngư vái tạ thầm thì tai bạn
Hai chúng ta nông cạn nghĩ suy
Đợi thầy trở lại Đan Kỳ
Thiên thai chốn ấy vân vy khó tìm
Cũng biết vậy cánh chim sơn cước
Nước mênh mông thần dược lâm y
Thác cao suối chảy ầm ỳ
Thâm sâu cùng cốc tà huy cuối trời
Đạo Dẫn mới mỉm cười kín đáo
Thầy trao tay chỉ bảo hai thiên
Một pho Tiêu bản luận biên
Hai là Tạp trị phú truyền cho ta
Thày còn viết lời ca để lại
Cả hai ngươi lo ngại làm chi
Gắng công đạo hạnh tu trì
Tinh thông y thuật việc gì chẳng nên.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.5.2020 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét