Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 160


Trung Hiếu Nghĩa Hiệp
“ Video 31“

“Quân tập hậu cắm dùi lưng giặc
Rắn mất đầu tan tác chim muông
Tinh binh ào ạt tấn công
Qua Oa vỡ mật núi sông kinh hoàng“

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 159


Trung Hiếu Nghĩa Hiệp
“ Video 30“

Tôi thấy cụ Nguyễn đình Chiểu xây dựng hình tượng nhân vật Hớn Minh này rất giống với nhân vật Lỗ Đạt tức Hoa hòa thượng Lỗ Trí Thâm bên Tàu do cụ đọc truyện Thủy Hử nghĩa là “Bến Nước“ của nhà văn Thi Nại Am bằng chữ Hán, thời đó vào đầu thế kỷ 19 cả Tàu và Việt Nam chưa có tiểu thuyết kiếm hiệp võ lâm của Kim Dung nên hình ảnh các nhà sư trong Thiếu Lâm tự  theo phiên âm la tinh gọi là Shao Lin còn vắng bóng.

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 158


Trung Hiếu Nghĩa Hiệp
“ Video 29“

Cám ơn người em gái của tâm hồn thi ca, Thu Hà ngâm thơ quá tuyệt vời, như em đang ngâm thơ cho các bậc đại trí đại giác trong chùa, cho các bậc tao nhân mạc khách học giả thì ngâm như vậy là hay nhất. Cứ nhẹ nhàng mà ngâm, thủ thỉ tâm tình ngâm nga và còn có ý nghĩa cả đọc truyện đêm khuya. Các vị đó sẽ có cơ hội lắng nghe thưởng thức ý nghĩa từng câu chữ. Anh thấy hay nhất là đoạn đọc thơ, mặc dù đoạn này chiếm tỷ lệ rất ít trong các video, chính đoạn này người nghe mới cảm thấy cái chí khí anh hùng can đảm và tấm lòng vì nước vì dân của ba chàng dũng tướng Lục vân Tiên, Hớn Minh và Vương tử Trực, mới thấy hết cái đoan trang tiết hạnh của người con gái miền Nam nói riêng và người con gái Việt Nam nói chung. Tuy rằng cốt truyện sảy ra ở bên Tàu cụ thể là nước Sở, nhưng tác giả thơ viết về cuộc đời nhân vật chính là chàng Lục vân Tiên này,  thì cả hai đều là người Việt Nam, tiền bối là người miền Nam còn kẻ vạn bối là dân Bắc Kỳ chánh hiệu con nai vàng đất tổ Hùng Vương. Còn ngâm cho những kẻ vô học tai trâu thì phải gào thét rầm rộ. Đáng tiếc số đông vào nghe thơ chỉ là những cái tai trâu, họ không cần lắng nghe và hiểu hết ý nghĩa câu thơ, họ hoàn toàn dốt đặc về nghệ thuật. Quan điểm của anh Lu Hà là nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật tất cả là chỉ vì cái hay cái đẹp của nghệ thuật chân thiện mỹ, văn hóa tinh thần và tâm hồn để sống làm người đúng nghĩa không chỉ vì nhu cầu bắt cơm manh áo tầm thường hay giàu sang phú quý. Còn quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh là thơ ca nhạc họa viết ra sáng tạo ra để phục vụ quảng đại số đông, phải hạ tầm nghệ thuật kỹ sảo trí năng xuống thấp nhất để phù hợp với trình độ số đông quần chúng thất học, xô bồ chợ búa làm sao cho họ vui họ cười, họ gào thét điên loạn, họ a dua theo bầy đàn để dễ sai khiến. Vì vậy chắc chắn thơ Thu Hà ngâm tặng anh Lu Hà và cả những bài bình giảng của anh Lu Hà sẽ ít người đọc và ít người like công khai. nhưng không hiểu tại sao Facebook thường xuyên thông báo cho anh Lu Hà biết số lượng người truy cập rất đông chỉ loáng vài phút đã có hàng trăm người vào nghe. Nên Thu Hà cứ yên tâm mà ngâm, nếu có một số người kêu ca là Thu Hà ngâm thơ nhẹ nhàng quá, không đủ âm lượng nhét đầy hai lỗ tai họ thì em đừng quan tâm. Mục đích chính em ngâm thơ tặng anh Lu Hà và các bậc tao nhân bạn hữu như anh Nguyễn Thanh Hoàng nghe hay cho những cái tai trâu vào nghe ké kia?

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 157


Trung Hiếu Nghĩa Hiệp
“ Video 28“

Cảnh ngộ nàng Kiều nguyệt Nga bỏ trốn khỏi nhà Bùi Kiệm tôi thấy có gì đó na ná giống cảnh nàng Vương thúy Kiều bỏ trốn khỏi Quan Âm Các của nhà Hoạn Thư? Có phải chăng cụ Nguyễn đình Chiểu từng đọc bản chữ Hán về Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân hay từng đọc Truyện Kiều bản chữ Nôm của cụ Nguyễn Du? Cũng vào lúc nửa đêm trăng sáng canh ba giờ tý cả hai đều bỏ trốn vì tình nhưng bản chất hai sự kiện khác nhau một bên vì tiết hạnh và lòng chung thủy, một bên là muốn thoát khỏi sự ràng buộc dày vò về tinh thần, thể xác, muốn trốn nợ trần ai. Kiều nguyệt Nga may mắn hơn còn có Phật Bà Quan Âm phù trợ, có quý nhân trợ giúp còn Vương thúy Kiều thì hết trượt vỏ dưa gặp vỏ dừa hết gặp bầy lang sói ác ma nhục dục này thì lại gặp bầy sài lang ác quỷ nhục dục khác, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn đình Chiểu là giáo dục đức hạnh trung hiếu nghĩa hiệp, trai thì trung hiếu làm đầu gái thì đức hạnh làm câu trau mình, còn tư tưởng chủ đạo của cụ Nguyễn Du là tài mệnh tương đố, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau, mô tả về kiếp người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Nguyễn đình Chiểu là tinh thần yêu nước dũng cảm quật cường của người nông dân Nam Kỳ lục tỉnh trước nạn giặc ngoại xâm còn Nguyễn Du là cảnh loạn lạc nhiễu nhương xã hội, con người bị đè nén áp bức xuống tận cùng như con giun con dế, hoàn toàn bất lực không có sức phản kháng chiến đấu mà bỏ mặc buông xuôi số phận phó thác cho trời và tôi đã cảm xúc thơ của cả hai cụ từ lục bát sang song thất lục bát và tư tưởng chủ đạo cũng đành phải ít nhiều thuận theo các cụ.

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 156


Trung Hiếu Nghĩa Hiệp
“ Video 27“

Tôi đã say xưa nghe video 25 và 26 thật là mê ly. Tôi cứ tưởng tổ sư giọng Huế lão bà Hồng Vân đến tăng cường, sau hỏi lại mới biết Thu Hà diễn ngâm với lý do vần trắc. Thế mới biết hai tác phẩm Cung Óan Ngâm Khúc và Chinh Phụ Ngâm được viết bằng thể thơ song thất lục bát được ngâm bởi giọng Huế lại đắc địa dễ thương truyền cảm như vậy?  Cũng giống như  món ăn vậy dù cho ta có ăn sang  như gà quay, cá rán, tôm hùm, bào ngư, tay gấu thì cũng chẳng có gì đặc biệt với người giàu có. Nhưng bữa tiệc sang trọng đó lại có thêm đĩa cà pháo, rau muống luộc, đậu rán chấm mắm tôm me chua lá sả, tương ớt thì tôi tin chắc các quan khách sành ăn đều lao đũa vào đĩa cà pháo xì xụp chan với nước canh rau rền và các món gà quay, cá rán, tôm hùm, bào ngư, tay gấu sẽ bớt ăn đi. Cái giọng Huế trọ trẹ lơ lớ với dân Bắc Kỳ như Lu Hà tôi đây thật là mê ly hấp dẫn vô cùng. Vậy lúc này đã 20 giờ khuya để tri ân nghệ sĩ Thu Hà tôi vẫn miệt mài hứng khơi viết bài bình giảng này. Nói chung Thu Hà cứ tiếp tục ngâm giọng Bắc Kỳ đi, đoạn thơ nào lại gặp phải cái anh vần trắc rắc rối thì cứ ngâm luôn giọng Huế đi nhé. Tôi chưa hề đặt chân lên kinh thành Huế nhưng tôi lại làm rất nhiều thơ về Huế. Có lẽ kiếp sau tôi sẽ đầu thai ở Huế chăng?

Song Thất Lục Bát Đấu Tranh Chùm 117


Con Đường Bệnh Hoạn
Thơ phê phán Tố Hữu khi đọc Từ Ấy

Đường cách mạng nhuốc nhơ bệnh hoạn
Tố Hữu ơi ngao ngán cho mày
Nực cười nghệ sĩ cáo cầy
Nâng bi thổi đít cùng bầy bút nô

Thất Ngôn Bát Cú Chùm 77


Xuân Canh Tý
họa thơ Lệ Khanh & Nguyễn Thanh Hoàng

Canh Tý đến rồi chúc đại ca
Bình an gia quyến nỗi thương nhà
Tháng năm lưu lạc dòng dư lệ
Thế kỷ lầm than tưởng nhớ hoa
Thong thả hoàng hôn con với cháu
Ngẩn ngơ chiều tối mẹ cùng cha
Tha phương xứ xở đầu râu bạc
Dặm thẳm mai vàng gió tuyết pha

Thất Ngôn Bát Cú Chùm 76


Can Đảm Thật
Họa thơ Vịnh Bọ Lạp

Chúng bắt ông rồi thật quá tay
Già mồm chửi đảng thảm buồn thay
Hiên ngang chính trực đầu quân tử
Chống trọi gian tà mặt lưỡi phay
Thục nữ thuyền quyên ai biết đến
Anh hùng chiến sĩ kẻ nào bay
Quê choa can đảm chơi còng sắt
Ngục tối đùa vui với sợi đay

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2020

Song Thất Lục Bát Chùm Số 273


Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 48

Ngư tiều nghĩ ngóng trông hòa khí
Thuốc chẳng cần tự trị bệnh lành
Cang kia thừa chế đã đành
Âm dương sinh tử mong manh phận người

Song Thất Lục Bát Chùm Số 272


Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 38

Sách y học nhân tri bách bộ
Gía gương hình theo đó kê toa
Ngư khen như gấm thêu hoa
Nhớ lời Đạo Dẫn dạy ta rành rành

Song Thất Lục Bát Chùm Số 271


Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 28

Đạo Dẫn ca lội sông năm ngựa
Bậc tài danh ngang ngửa khi nào
Mặc gia tuấn kiệt anh hào
Oai phong lẫm liệt họ Đào còn ai?

Nhập Môn than nguôi ngoai chẳng nỡ
Đường công danh vướng nợ thanh khâm
Kinh Châu rồng phụng cát lầm
Chó gà Tề khách giam cầm chớ khoe

Tiều ngâm nga nào dè Mông thỏ
Họ Lục kia chuyên chở đầy xe
Kéo tơ thân nhộng vàng khè
Cuốc kêu sa sả xác ve nhọc nhằn

Ngư mới tiếp trở trăn tàu ngựa
Kẻ dắt trâu lần lữa sinh nghi
Năm hồ dấu lấp đường đi
Hỏi người bắt rận đền nghì nước non

Cờ thúc quý héo hon ủ rũ
Lộn ấn bùa nay chúa mai tôi
Nhập Môn vận nước nổi trôi
Ông Đoàn trốn khách núi đồi bao la

Bốn kẻ sĩ thơ ca hoan hỉ
Ánh trăng huyền thủ thỉ mái tranh
Ngày mai tới trở lại Đông Thành
Thong dong Đạo Dẫn giờ lành luyện đan

Cuộc chia ly chứa chan huynh đệ
Khách giang hồ bốn bể là nhà
Đan Kỳ cách trở sơn hà
Hẹn ngày tái ngộ thiết tha nỗi niềm

Bời vợ con bên thềm vướng víu
Chẳng nỡ xa bìu díu ngư tiều
Núi tiên thảo dược sớm chiều
Nhập Môn chỉ bảo lắm chiêu thần kỳ

Bậc đại phu nho y đạo lý
Chốn phong trần tri kỷ gặp nhau
Ngư tiều buồn bã dàu dàu
Muốn cùng Đạo Dẫn trước sau vẹn tròn

Dẫn động viên vẫn còn cơ hội
Bậc danh y dẫn lối chỉ đường
Đồng cam cộng khổ đoái thương
Nhân tình thế thái cố hương đợi chờ

Am Bảo Dưỡng nương nhờ năm tháng
Học thành tài tỏ rạng động tiên
Nhập Môn y thuật chân truyền
Mưa lâu thấm đất truân triên ngư tiều

Kỳ Nhân Sư phiêu diêu sư phụ
Biết làm sao trú ngụ nơi đâu
Biệt vô âm tín đã lâu
Nhập Môn rầu rĩ mái đầu tuyết sương

Đại đệ tử vẫn thường tra cứu
Người xưa khuyên ích hữu có ba
Sơn lâm dị thảo bướm hoa
Cùng nhau thưởng ngoạn chơi tòa thiên thai.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
10.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 29

Chiều xuân mộng trần ai hiếm có
Cảnh thần tiên đây đó viếng thăm
Thày đi quá độ trăng rằm
Cánh chim xa lắc hồ tăm cá chìm

Am Bảo Dưỡng im lìm Y quán
Từ hôm nay có bạn tri âm
Nhập Môn hoan hỉ mừng thầm
Mộng Bào hai họ tình thâm nào bằng

Nghệ tinh truyền thung thăng bàn luận
Vấn đáp hay phấn chấn nhiệm mầu
Quản chi mưa nắng dãi dầu
Miệt mài sách thuốc từng câu chẳng lầm

Quên chuyện cũ thanh khâm vướng nợ
Nguyện cùng nhau thày tớ giúp đời
Chi lan thảo mộc mấy hơi
Sá gì bỉ thử trọn lời vàng son

Tình huynh đệ keo sơn gắn bó
Nghĩa đồng môn sáng tỏ thế gian
Nhớ câu: ” thủ thiện phụ nhân”
Vạch đường chỉ lối tinh thần mở mang

Miễn thấy được vẻ vang đạo hạnh
Lũ tiểu nhân đành hạch sá chi
Ngỡ ngàng kẻ dưới thầm thì
Quyết tâm cầu đạo thị phi ích gì?

Truông Âm Chất rầm rì to nhỏ
Chốn lâm y cây cỏ âm công
Xưa nay thày thuốc tinh thông
Cảm lòng trời đất dòng sông ân tình

Đức hiếu sinh thần linh phù trợ
Thẹn lòng mình chăng chớ lợi danh
Nhân tình thế thái an lành
Lang băm ghen tỵ tranh giành tiếng tăm

Đổ trăm dâu đầu tằm cam chịu
Cho đến ngày bận bịu ơm tơ
Thướt tha nhung lụa đợi chờ
Thuyền y mát mái đôi bờ đục trong

Bõ công chèo thong dong ngày tháng
Biết bao nhiêu cay đắng trải qua
Ốm đau thời tiết bốn mùa
Bệnh nào thuốc ấy bán mua thật lòng

Bệnh không khỏi long đong số phận
Đừng phiền lòng tủi hận lương y
Kê đơn bắt mạch đúng kỳ
Hồn nào dám trách âm ty suối vàng

Luôn chính trực công bằng bác ái
Cứu được người chẳng ngại giàu nghèo
Nhà tranh vách đất hắt heo
Sương rơi đầu ngõ trong veo tấm lòng

Cũng lắm kẻ chỉ mong vơ vét
Thuốc nhì nhằng bắt chẹt bệnh nhân
Đào vàng moi của dần dần
Trời tru đất diệt tâm thần đảo điên.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 30

Kê đơn thuốc lắm tiền đủ vị
Khinh kẻ nghèo thần trí vật vờ
Coi qua con bệnh xác xơ
Thiếu tiền bỏ mặc bơ vơ linh hồn

Sách y thư bảo tồn nòi giống
Bệnh phong lao kèn trống điêu linh
Gặp may thày thuốc tận tình
Kịp thời chữa chạy chúng sinh đền nghì

Tiền trả trước phong bì biếu xén
Thuốc giả kê bỏn xẻn ít nhiều
Lọc lừa chẩn trị lắm chiêu
Coi thường mạng sống đủ điều sai ngoa

Bậc lương y kê toa bắt mạch
Cốt cứu người ân trạch cho không
Nhớ câu:” Y tích âm công”
Thuốc châm môi cọp mắt rồng tổ xưa

Bệnh dịch hạch chẳng chừa ai cả
Từ vua quan vương bá công thần
Lan tràn đoạt mạng thứ dân
Đại phu bốc thuốc xa gần ngóng trông

Nước trong nguồn mênh mông trời biển
Lòng mẹ hiền thánh thiện chân như
Quán âm bồ tát nhân từ
Lương y trọng trách thiên tư cam lồ

Biết bao kẻ tham ô hủ bại
Tàn sát dân thuốc sái điêu ngoa
U mê tăm tối mù lòa
Độc quyền thống trị vác loa tuyên truyền

Y thuật cao thuốc tiên cứu mạng
Đạo lương y tỏ rạng đến nay
Ngư tiều may mắn lắm thay
Nhập Môn chỉ bảo chuyên tay thạo nghề

Khoa châm cứu mọi bề sáng tỏ
Khắp toàn thân vạch rõ chân kim
Tinh tường huyệt đạo nổi chìm
Gặp người mỡ béo phải tìm cho ra

Ngư nhà đạo thiết tha cứu độ
Tiếng của thày đây đó chẳng hư
Dồi dào phúc đức có dư
Nghìn năm bia đá công tư vẹn toàn

Tiều cảm kích hân hoan học thuật
Kỳ Nhân Sư đáng mặt tôn sư
Nhập Môn âm chất không từ
Đạo lành công đức thực hư giãi bày

Cõi người ta đắng cay thân thế
Kẻ giàu thương đốt khế nợ lâu
Người già bạc trắng mái đầu
Canh gà xao xác dãi dầu tuyết sương

Lúa nhập kho luân thường phát chẩn
Cứu đói người lận đận khổ đau
Nhường cơm sẻ áo cho nhau
Thí quan thí dược trước sau trọn lòng.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31

Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc
Cánh chim di thân thuộc giống nòi
Phận bèo nhân phẩm trọng coi
Đại phu bốc thuốc mặn mòi quê hương

Giúp mai táng thê lương cố quốc
Vợ chôn chồng bạc phước hầu non
Bạn bè làng xóm héo hon
Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo

Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ
Án dân oan thống khổ phũ phàng
Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng”
Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh

Hận ngút trời điêu linh xã hội
Hôn quân kia tội lỗi gây ra
Triều đình hủ bại quan nha
Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim

Đất U, Yên đắm chìm năm tháng
Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa
Dân đen giọt lệ nhạt nhòa
Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng

Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm
Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân
Nhân Sư nổi tiếng xa gần
Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ

Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại
Khắc bia son quan tái gốc trời
Đạo con hiếu thuận muôn nơi
Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương

Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu
Học Chu Công dấu chú mọi đằng
Noi gương Văn Vũ Thành Thang
Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà

Học họ Ngu gian tà né tránh
Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao
Tiếng thơm công đức dồi dào
Con lành cháu thảo tự hào tổ tông

Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy
Lấy âm công nhờ cậy gốc nho
Sách tra Vĩnh loại nhiều pho
Thể nhân vị lục học trò anh minh

Ngư hỏi việc bất bình chế độ
Bầy quan tham quốc khố chia nhau
Giả vờ từ thiện làm màu
Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền

Xây chùa to đảo điên miếu mạo
Khói nhang đèn lếu láo ê a
Làm chay hát bội thí ra
Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo

Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu
Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư
So câu: “ tích thiện hữu dư”
Cho vay một vốn lợi từ mười phân.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
11.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 32

Bầy con buôn chiếm phần lợi lạc
Đám nhà giàu kiếm chác đánh hơi
Đất đai hoàng tộc khắp nơi
Vương tôn công tử ăn chơi điếm đàng

Dân tứ xứ xóm làng tàn tạ
Lành có đâu mà trả dữ đền
Màn trời chiếu đất đôi bên
Đường dài cát bụi chẳng nên trách trời

Đoàn hành khất tả tơi thảm thiết
Lê gót chân chẳng biết đi đâu
Nhớ câu:“ thiện ác đáo đầu
Nổi trôi vận nước bể dâu đoạn trường

Am Bảo Dưỡng khách thường lai vãng
Rừng lâm y ló rạng sương mai
Ngậm ngùi nghĩ chuyện khứ lai
Tinh thông y thuật hương lài thoảng bay

Bậc đại phu lòng ngay dạ thẳng
Đạo cương thường quyết chẳng phụ ai
Nỗi niềm day dứt nguôi ngoai
Vợ bìu con rín u hoài khổ đau

Nơi cắt rốn chôn rau tang tóc
Quê hương mình lăn lóc thê lương
Giặc còn dày xéo nhiễu nhương
Gian thần lũng đoạn khuyển dương đọa đầy

Hãy ở lại nơi đây ẩn dật
Nghề nghiệp hay chân thật đạo đời
Khôn ngoan phải biết thức thời
Lương y từ mẫu thương người lầm than

Phường lục tặc dã man cướp đoạt
Theo luật rừng sao thoát lưới trời
Tích dần nghiệp chướng cho đời
Có vay có trả rạch ròi xưa nay

Hai ngươi chịu đắng cay phiền não
Cảnh gia đình chao đảo bấy lâu
Nắng mưa tầm tã trên đầu
Tiều phu ngư phủ đĩa dầu hư hao

Mộng Thế Triền cùng Bào Tử Phược
Cảnh khốn cùng thuận bước chân đi
Thanh khâm trút gánh nam nhi
Cưu mang nhân thế đền nghì phiếu mai

Nuôi khí huyết dùi mài tinh tấn
Lòng dục ngăn Tổ vấn thiên đầu
Kỳ Hoàng tôi chúa hỏi nhau
Thiên chân bàn luận nhiệm màu cẩm nang

Tránh ăn bậy rõ ràng thấy gốc
Bữa trà xong rượu thuốc thân tâm
Người nào đàm hỏa hư âm
Lời khuyên Nhự đạm phải tầm tra ngay

Tham nhục dục lắt lay trước gió
Mã thượng phong xin chớ coi thường
Trâu gìa tuổi hạc thê lương
Hồn xiêu phách lạc âm dương chia lìa.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
12.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 33

Lời thánh hiền khắc bia răn bảo
Mộng hão huyền cải lão trường sinh
Khuyên nhau đau ốm bệnh tình
Dưỡng thông khí huyết tâm linh nào bằng

Máu hơi đủ siêu thăng trời đất
Luật tự nhiên mới thật sống dai
Ô hay trong cõi trần ai
Bao người đoản mệnh cũng loài vi nhân

Tiều muốn hỏi khác phần thọ yểu?
Bởi vì sao nên thiếu công bằng
Hoặc là thiên quý sai chăng
Nhập Môn lưỡng lự than rằng xưa nay

Từ cổ kim sống ngay ở thật
Tránh xa hoa dâm dật bê tha
Thân tâm trong sạch thật thà
Thất tình lục dục tránh xa ưu phiền

Trọn hai chữ thiên niên tuổi hạc
Học dưỡng sinh đạm bạc thanh cao
Nội công khí lực dồi dào
Tĩnh tâm an lạc xuân đào trổ hoa

Giữ cân băng điều hòa thể trạng
Tránh ăn nhiều phủ tạng mỡ tăng
No say lửa dục càng hăng
Tổn hao sức lực bệnh càng phát ra

Trai ba mươi gật gà loạng choạng
Bệnh sa đì khệnh khạng bước chân
Xanh xao vàng võ thất thần
Gan suy thận trụy xương gân rã rời

Các ngươi hãy nghe lời ta nói
Con gái thì bảy tuổi răng thay
Tóc mây xanh rậm thấy ngay
Hương thơm phảng phất mỗi ngày dần tăng

Thiên quý chí rõ ràng kinh nguyệt
Mười bốn xuân là biết xung nhâm
Mạch thông rãn nở khí âm
Hai mươi mốt thận tới tầm thanh minh

Răng hàm đủ trong mình sung sức
Hai tám xuân khí lực đều sung
Tóc đen mượt rõ hình dung
Ba mươi lăm tuổi sượng sùng phì ra

Tới bốn hai dần dà ngấn mặt
Bốn chín thì khóa chặt xung nhâm
Mạch hư tổn hại khí âm
Đường kinh tắc nghẽn tái thâm đồi mồi

Thiên quý kiệt hỡi ôi phận gái
Ngoài năm mươi tê dại quan san
Còn đâu sinh đẻ chứa chan
Hồi xuân lửa dục nồng nàn dầu sôi

Trai tám tuổi thận bồi răng tóc
Mười sáu thì sức vóc mới sung
Biết thiên quý chí lên cùng
Tinh đầy thông mạch anh hùng là đây.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
14.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 34

Hai bảy tuổi tóc dày răng cứng
Ba mươi hai gân vững lạ kỳ
Bốn mươi thì thận mới suy
Tóc răng đã mỏi tới kỳ da thô

Ngao ngán thay ô hô bốn tám
Năm sáu thì da nhám xương ròn
Sáu tư tạng phủ mỏi mòn
Tuổi thiên quý kiệt héo hon lạnh lùng

Bởi đường đời cùng chung lối định
Trai gái thường vẫn tính xưa nay
Nhân sinh bảo dưỡng là may
Ngoài tuần thiên quý còn bầy trẻ thơ

Tham tửu sắc thờ ơ sức khỏe
Thiên quý còn bao kẻ tàn phai
Biết mình nào có mấy ai
Dưỡng sinh hai chữ dẻo dai lâu bền

Cũng lắm kẻ tu tiên mây gió
Môn cho rằng đây đó xưa nay
Có vua Hoàng Đế mê say
Thuật truyền nhân thế sau này sai ngoa

Các đạo sĩ đời sau phân nhánh
Tà thuật dùng né tránh chân nhân
Theo ta quy thuận an phần
Nhân tình thế thái tâm thân ý trời

Như Vương Bao người đời ca ngợi
Đường chính theo vạch lối báu cho
Mặc ai nghiêng ngửa duỗi co
Bằng sao Bành Tổ xây lò hóa công

Phái bàng môn gieo trồng tả đạo
Họ Kiều, Tùng cầu đảo luyện hình
Thổ hà hơi hít linh tinh
Trau mình nào phải đọc kinh Hoàng đình

Từ lân lý lòng mình chính trực
Bậc cao nhân thao thức anh minh
Bách gia chư tử luận bình
Cần chi phải đọc nhiều kinh âm phù

Cũng xuất gia đường tu lắt léo
Phật hay tiên giữ nẻo tâm thân
Thuận theo bảo dưỡng tinh thần
Nở hoa giác ngộ thế nhân bao đời

Đạo Dẫn than lòng người đen trắng
Thân bọt bèo cay đắng xót xa
Đồng tiền nén bạc sinh ra
Tai ương nghiệp chướng cảnh nhà lầm than

Câu phụ tử quân thần nho sĩ
Đạo thánh hiền nghi kỵ lẫn nhau
Tu mi nam tử vàng thau
Kỷ cương tàn lụi nhạt màu nước non

Bao kẻ sĩ héo hon lòng dạ
Chữ trung thần sắt đá đâu còn
Phận hèn giữ đạo tôi con
Hôn quân bạo chúa hao mòn sức dân.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
14.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 35

Giặc nội xâm mưu thâm kế hiểm
Bầy hắc nô đàng điếm ăn chơi
Gian thần ác bá khắp nơi
Liên minh ma quỷ giống nòi kể chi

Đạo Dẫn than tới thì mạt vận
Bạn ta từng lận đận lầm than
Bốn bề khói lửa điêu tàn
Ngoại bang xâm lấn dã man nhục hình

Còn tin ai triều đình đổ nát
Thói sai nha sát phạt chẳng từ
Cạn nguồn suối mát chân như
Phật tiên quả đắng thiên tư cửa thiền

Người thày thuốc triền miên sầu tưởng
Treo cờ sao ba tượng trong tòa
Tiều kêu đồ ấy lập lòa
Tiên thiên bày biện nhạt nhòa làm chi?

Ngư thắc mắc có gì khó hiểu
Nhập Môn rẳng bảng hiệu nhà ta
Âý từ kinh dịch thảo ra
Nửa trong y học bao la thần kỳ

Môn trong quẻ Bào Hy có tám
Tính toán thành Kiền Khảm Tốn Ly
Tiếp theo Cẩn Chấn Khôn Đoài
Tiên thiên một bức đồ khai muôn loài

Coi phương hướng trần ai sinh hóa
Tám quẻ gieo nhân quả xấu lành
Âm dương đủ cả ngũ hành
Đạo y kinh dịch tính danh rõ ràng

Kiền tây bắc rồi sang đình Hợi
Tuất lẻ loi chới với đi đâu
Khảm phương chính bắc tương cầu
Tý cung nhấp nhổm nhiệm mầu biết không

Cấn đông bắc hanh thông Dần Sửu
Chấn soán ngôi đương Mão phương đông
Chân trời trải rộng mênh mông
Tốn kia Thìn Tỵ cánh đồng đông nam

Hướng chính nam nhăm nhăm đương Ngọ
Ly cung này sáng tỏ chiều lam
Khôn Mùi Thân phía tây nam
Đoài đương ngôi Dậu lại nhằm tây phương

Trong tám hướng âm dương suy xét
Máy trời xây rõ nét năm hành
Hậu thiên Ly Khảm tạo thành
Cho hay khí huyết rõ rành chủ trương

Ly hơi lửa thuộc dương khí bốc
Khảm rõ ràng là nước máu âm
Song mà Ly đứng bóng dâm
Khảm cung đầy giữa thật cầm chân dương

Biết hư thực âm dương biến hóa
Hiểu chưa thông hậu quả khó lường
Mong rằng y thuật tinh tường
Nước đầy lửa trống tìm đường cứu nguy

Cần hòa hợp phải tùy nước lửa
Thế mạnh này chất chứa trong mình
Yếu thời nước lửa bất minh
Chưa thông kinh dịch thuận tình chước y.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
15.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 36

Tổ sư dạy Hiên Kỳ trước hết
Quẻ Bào Hy phải thiệt tỏ tường
Tiều phu hỏi tượng Minh Đường
Là đồ khí hậu chủ chương lẽ gì?

Môn trả lời hai nghì trên dưới
Bức họa này vời vợi thiên tri
Giống như soạn thảo kinh thi
Người kia vật nọ tóm ghi lược đồ

Vẽ mười vòng cùng phô một nhóm
Khí hậu coi từng xóm ứng nhau
Năm ngày một hậu bồ xâu
Rõ ngay ba hậu bắt đầu tính coi

Được một khí sáng soi tỏ dạng
Hai khí thành một tháng kể ra
Đất trời vận chuyển bao la
Giáp mười hai tháng ấy là một niên

Một năm tự thiên nhiên riêng biệt
Có bốn mùa nhất thiết tạo nên
Hai mươi bốn tiết theo liền
Xây hai chục tám sao biên sách trời

Ba mươi sáu cung thời xuân đến
Đều nhịp nhàng sinh biến xoay vần
Mỗi năm khí hậu tần ngần
Mười vòng lớn nhỏ bần thần thủy chung

Bởi việc đời tận cùng bác vật
Mười vòng xoay trời đất một hồ
Lặng lòng coi bức thư đồ
Ba ngàn thế giới nhấp nhô thấy bờ

Tuyệt tác thay hoang xơ cây cỏ
Sách châm kim lại có ba hình
Mỗi khi thập tử nhất sinh
Cao minh y thuật gọi Minh Đường đồ

Hình nằm sấp để đo kinh túc
Huyệt dò tìm thành thục sau lưng
Thái dương chớ có lừng khừng
Một hình nằm ngửa coi chừng Dương minh

Còn hình ngồi đinh ninh một mé
Túc thiếu dương rành rẽ hai bên
Ba hình lập được một nền
Ba trăm sáu chục năm tên tuyệt vời

Coi kinh lạc tới nơi tới chốn
Đồ Đường minh đủ trọn độ trời
Một niên thủ túc ai ơi
Ba âm liền với ngoài thời ba dương

Mười hai kinh chia đường mấy lớp
Có sau du sáu hợp thường châm
Người nào đau đớn kinh âm
Huyệt du chọc đúng thoát mầm tai ương

Tam tiêu, mật, huyệt thường bọng đái
Dạ dày kia với lại ruột gìa
Ruột non gan thận trau tria
Kinh dương thoát hiểm bên rìa rừng hoang

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
16.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 37

Kinh sáu phủ thênh thang ta đếm
Bảy mươi hai huyệt chiếm tay chân
Kinh âm năm tạng từng phần
Sáu mươi lỗ huyệt cao nhân chia đều

Sáu đối sáu sách nêu trên hết
Thành thơ ca rõ thiệt âm dương
Mười hai huyệt đạo tỏ tường
Sáu bài khí huyết vẫn thường viết ra

Phép châm cứu người ta ca ngợi
Mười tám bài vời vợi sáng thông
Huyệt kinh phải đọc thuộc lòng
Dương kinh lục phủ xuôi dòng vinh du

Tiều thán phục thiên thu vạn đại
Ngư đồng tình phải trái phân minh
Mười hai kinh nguyệt thuận tình
Hơi dồn máu chạy nhân sinh muôn loài

Luận khí huyết sáu bài hoan lạc
Môn khen hay chẳng khác thánh ca
Mỗi câu mỗi huyệt xem ra
Bắt đầu từ phế chạy qua đại trường

Xung phủ đến thiếu dương biết trước
Mối theo đường hung ức ngón tay
Thương dương cũng đến chỗ này
Chạy lên trước mũi tên bày nghênh hương

Khấp tủa xuống dưới đường ấn bạch
Vị với tỳ tới nhánh ngón chân
Lệ đoài  xin chớ tần ngần
Ai hay vú tả rào phần đại bao

Ao tiểu trường vào ba tâm chủ
Huyệt cực tuyền tột chỗ da xương
Hữu ra ngón út đầu đường
Thiếu xung thiếu trạch tả thông trong ngoài

Phần thính cung ở tai bên tả
Dài chí âm mới hạ bài tư
Tình minh gốc mũi như từ
Giữa bàn chân giữa xem như dũng tuyền

Đến du phủ tả biên phủ huyệt
Chiều trung xung khẩn thiết thiên trì
Quan xung ngón cái đen sì
Trúc ty huyệt ấy như di chặng này

Y thuật cao can vầy sáu đảm
Đồng tử ra gò má tả cầm
Ngón chân út rõ khiếu âm
Thẳng bên vú hữu âm thầm kỳ môn

Vòng khí huyết đóng đồn răm rắp
Mười hai kinh lạc khắp ngày đêm
Trong ngoài chuyển vận êm đềm
Rồi nhanh như ngựa hòa mềm xa đi.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
17.4.2020 Lu Hà