Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 208

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 30

 

“Kê đơn thuốc lắm tiền đủ vị

Khinh kẻ nghèo thần trí vật vờ

Coi qua con bệnh xác xơ

Thiếu tiền bỏ mặc bơ vơ linh hồn

 

Sách y thư bảo tồn nòi giống

Bệnh phong lao kèn trống điêu linh

Gặp may thày thuốc tận tình

Kịp thời chữa chạy chúng sinh đền nghì

 

Tiền trả trước phong bì biếu xén

Thuốc giả kê bỏn xẻn ít nhiều

Lọc lừa chẩn trị lắm chiêu

Coi thường mạng sống đủ điều sai ngoa

 

Bậc lương y kê toa bắt mạch

Cốt cứu người ân trạch cho không

Nhớ câu:” Y tích âm công”

Thuốc châm môi cọp mắt rồng tổ xưa

 

Bệnh dịch hạch chẳng chừa ai cả

Từ vua quan vương bá công thần

Lan tràn đoạt mạng thứ dân

Đại phu bốc thuốc xa gần ngóng trông

 

Nước trong nguồn mênh mông trời biển

Lòng mẹ hiền thánh thiện chân như

Quán âm bồ tát nhân từ

Lương y trọng trách thiên tư cam lồ

 

Biết bao kẻ tham ô hủ bại

Tàn sát dân thuốc sái điêu ngoa

U mê tăm tối mù lòa

Độc quyền thống trị vác loa tuyên truyền

 

Y thuật cao thuốc tiên cứu mạng

Đạo lương y tỏ rạng đến nay

Ngư tiều may mắn lắm thay

Nhập Môn chỉ bảo chuyên tay thạo nghề

 

Khoa châm cứu mọi bề sáng tỏ

Khắp toàn thân vạch rõ chân kim

Tinh tường huyệt đạo nổi chìm

Gặp người mỡ béo phải tìm cho ra

 

Ngư nhà đạo thiết tha cứu độ

Tiếng của thày đây đó chẳng hư

Dồi dào phúc đức có dư

Nghìn năm bia đá công tư vẹn toàn

 

Tiều cảm kích hân hoan học thuật

Kỳ Nhân Sư đáng mặt tôn sư

Nhập Môn âm chất không từ

Đạo lành công đức thực hư giãi bày

 

Cõi người ta đắng cay thân thế

Kẻ giàu thương đốt khế nợ lâu

Người già bạc trắng mái đầu

Canh gà xao xác dãi dầu tuyết sương

 

Lúa nhập kho luân thường phát chẩn

Cứu đói người lận đận khổ đau

Nhường cơm sẻ áo cho nhau

Thí quan thí dược trước sau trọn lòng.“

 

 

Quán âm bồ tát: Quán Thế Âm nghĩa là "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian" là một vị Bồ-tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, cả thân nam lẫn thân nữ, Quán Thế Âm là một trong những vị Bồ-tát được tôn kính thờ phụng rộng rãi nhất trong Phật giáo Đại thừa, cũng như không chính thức trong Phật giáo Nguyên thủy.

 

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

 

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 31

 

“Tiều than thở xuôi dòng thời cuộc

Cánh chim di thân thuộc giống nòi

Phận bèo nhân phẩm trọng coi

Đại phu bốc thuốc mặn mòi quê hương

 

Giúp mai táng thê lương cố quốc

Vợ chôn chồng bạc phước hầu non

Bạn bè làng xóm héo hon

Chia phần tang tóc đàn con đói nghèo

 

Biết bao nhiêu gian neo cảnh ngộ

Án dân oan thống khổ phũ phàng

Ngẫm câu: ” xuất tội hoạt hàng”

Ra tay cứu nạn mọi đàng lợi sinh

 

Hận ngút trời điêu linh xã hội

Hôn quân kia tội lỗi gây ra

Triều đình hủ bại quan nha

Cường hào ác bá sơn hà nhượng Kim

 

Đất U, Yên đắm chìm năm tháng

Chúa Liêu kia trác táng điêu ngoa

Dân đen giọt lệ nhạt nhòa

Tấn vương quỳ mọp thềm hoa tiệc tùng

 

Nghề thày thuốc hang cùng ngõ hẻm

Chữa ngọng đui chẳng kém tiền nhân

Nhân Sư nổi tiếng xa gần

Tinh thông y thuật muôn dân cậy nhờ

 

Câu” vi thiện” bùn nhơ chẳng ngại

Khắc bia son quan tái gốc trời

Đạo con hiếu thuận muôn nơi

Thảo nhờ cha mẹ tình người vấn vương

 

Thầy Tăng Tử yêu thương phụ mẫu

Học Chu Công dấu chú mọi đằng

Noi gương Văn Vũ Thành Thang

Sớm khuya thăm hỏi lầu trang mặn mà“

 

Tăng Tử tên thật là Tăng Sâm tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện Bình Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học trò xuất sắc của Khổng Tử. Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong "Nhị thập tứ hiếu" nghĩa là hai mươi tư tấm gương hiếu thảo vì truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động lòng. Tăng Tử kế thừa và phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng của Tăng Tử đề cao chữ hiếu, tín. Ông thường nói:

-"Mỗi ngày ta xét thân ta ba việc: Nhận làm thay người ta việc gì, ta có thực tâm làm không? Cùng với bè bạn giao ước điều gì, ta có thất tín không? Thầy dạy ta những gì, ta có nghiên cứu học tập không?

 

Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp hay Tử Tư làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư (cùng với Luận Ngữ, Đại Học, Mạnh Tử).

 

Có lần bà mẹ đánh ông, ông khóc nức nở. Ngạc nhiên bà mẹ dừng roi và hỏi: --“Sao từ trước đến nay ta đánh chẳng bao giờ con khóc mà hôm nay con lại khóc?“

 

Thưa mẹ:

- “Mấy lần trước con đau nên biết mẹ còn khỏe nay con không thấy đau nữa nên thương mẹ đã già yếu.“

Ông thật là người con chí hiếu!

 

 

Chu Công tên thật là Cơ Đán còn gọi là Thúc Đán , Chu Đán hay Chu Văn công. Ông là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ vương Cơ Phát lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị từ tay nhà Thương.

 

Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp Tân vương là Chu Thành vương xây dựng và phát triển nhà Chu. Hình ảnh của ông tiêu biểu cho tấm lòng trung quân phò chúa, không sinh dị tâm, thường được hậu thế về sau nhắc đến cùng với Y Doãn nhà Thương. Nhà Chu dưới sự nhiếp chính của ông đã vươn lên thành một nước mạnh mẽ, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng nên nền văn minh China rực rỡ về sau. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của văn minh China (Tàu) khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công, quên đi cái tên Cơ Đán, khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.

 

“Học họ Ngu gian tà né tránh

Chuyện trăm nhà hiển hách biết bao

Tiếng thơm công đức dồi dào

Con lành cháu thảo tự hào tổ tông

 

Hai mươi bốn thảo trồng gieo cấy

Lấy âm công nhờ cậy gốc nho

Sách tra Vĩnh loại nhiều pho

Thể nhân vị lục học trò anh minh

 

Ngư hỏi việc bất bình chế độ

Bầy quan tham quốc khố chia nhau

Giả vờ từ thiện làm màu

Cúng tiên thờ Phật cửa sau lạy tiền

 

Xây chùa to đảo điên miếu mạo

Khói nhang đèn lếu láo ê a

Làm chay hát bội thí ra

Oan gia trái chủ vịt gà đầu heo

 

Nhập Môn cười chó mèo xương xẩu

Bầy xướng ca cánh hẩu dễ hư

So câu: “ tích thiện hữu dư”

Cho vay một vốn lợi từ mười phân.“

 

Họ Ngu là một triều đại bán sơ khai của người Tàu trong thời kỳ Thiện nhượng, sau nhà Đường và trước nhà Hạ

Hữu Ngu: tên một quốc gia bộ lạc từng tồn tại suốt từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế cho đến cuối đời nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc

Nước Ngu: tên một nước chư hầu nhà Chu, Chu Vũ Vương phân phong cho Cơ Trọng (hậu duệ Ngô Thái Bá), đời Xuân Thu bị Tấn Hiến Công tiêu diệt cùng điển tích "mượn đường phạt Quắc" nổi tiếng.

 

26.4.2020 Lu Hà

 

Số 207 Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 207

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 28

 

“Đạo Dẫn ca lội sông năm ngựa

Bậc tài danh ngang ngửa khi nào

Mặc gia tuấn kiệt anh hào

Oai phong lẫm liệt họ Đào còn ai?

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 206

 

Y Đức Hai Họ Mộng Bào

cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 27

 

“Chiều xuân vương Di Hoa lẫn lộn

Thánh kinh càng bộn rộn trong ngoài

Thịnh suy dễ chẳng nguôi ngoai

Hết cơn bĩ cực thái lai lại về

Thơ Với Các Danh Nhân Đức Chùm Số 9

 

 Trở Về Nhà

Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 34

 

Người thủy thủ bao năm xa cách

Nay trở về hiển hách quang vinh

Chim bay hoa bướm rung rinh

Đảo hoang thu hoạch hành trình đại dương

Thơ Với Các Danh Nhân Đức Chùm Số 8

 

 

Vào Một Ngày

Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 23

 

Vào một ngày nhởn nhơ mây trắng

Ánh sáng mờ chạng vạng tấc gang

Núi rừng xơ xác bẽ bàng

Cây không mọc được hành lang đắm chìm

Thơ Với Các Danh Nhân Đức Chùm Số 7

 

Chiều Hoang Dại

Cảm xúc thơ Friedrich Hölderlin bài 13

 

Ngồi lặng lẽ căn lều bóng mát

Bác thợ cày vẻ mặt nhu mì

Cầm tay điếu thuốc nhâm nhi

Chuông chiều hiếu khách thầm thì bên tai